Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ] |
|
9. Hương vị làng quê |
Tôi
không còn nhớ được hương vị sữa mẹ. Nhưng tôi chắc
là hương vị sữa mẹ phải thơm ngon và đặc biệt lắm.
Bởi cứ trông những đứa trẻ khi đói mà thấy bầu sữa
mẹ là nó ngoạm vào ngay rồi mút lấy mút để. Chỉ
thỉnh thoảng mới thấy ngừng một nhịp để lấy hơi: "ử...".
Một tay nó mân mê cái đầu vú bên kia và đôi mắt thì trìu
mến nhìn mẹ ra chiều biết ơn lắm. Vơi bầu này nó lập
tức ngoạm sang bầu bên kia. Chỉ đến khi đã no nê cái bụng,
nó mới nhả vú quay ra, toe toét cười .Viên mãn lắm. Nhưng
chẳng một đứa trẻ nào giữ được cái cảm giác ấy cho
đến lúc trưởng thành. Có lẽ khi chưa có ngôn ngữ, chưa
biết nói thì cảm giác cũng chưa có túi đựng, nó cứ tràn
trề trong tâm tư rồi lẫn vào trong vô thức? Nhưng tôi còn
nhớ được hai thứ hương vị gắn liền với người mẹ.
Thứ nhất đó là mùi bánh khúc. Vào một ngày xuân, ngoài
trời lác đác mưa, tôi vừa mới ngủ dậy thì đã thấy mẹ
tôi đang ngồi bên một cái chõ nghi ngút bốc hơi xới xới
đánh đánh một thứ gì đó. Cả mấy gian nhà ngang xực nức
một mùi xôi lạ. Mẹ tôi đưa cho tôi một cái bánh trông
giống như cái lưỡi lợn xung quanh dính đầy những hạt xôi
và bảo rằng đó là bánh khúc. Tôi ăn và cảm thấy cái dẻo
dẻo của bột nếp, dai dai của rau khúc và một mùi thơm tổng
hợp của xôi nếp và rau khúc. Loại bánh khúc mẹ tôi làm
chắc là chế biến còn thô sơ. Chỉ ngào bột nếp lẫn vào
với rau khúc, nặn thành bánh, xếp vào chõ, lớp gạo, lớp
bánh rồi đem đồ chín. Nhưng chính sự chế biến thô sơ
ấy lại làm cho cái hương vị của bánh khúc có vẻ đậm
đà và đặc trưng hơn. Sau này khi lớn lên, cứ mỗi lần
thấy mưa xuân lác đác hay nghe dì Khiêm hát những câu hát
buồn: "Buồn về một nỗi tháng giêng / Bánh chưng chấm
mật nằm nghiêng thở dài / Buồn về một nỗi tháng hai /
Mưa xuân lác đác hoa nhài nở ra...", là tôi lại nhớ đến
hương vị bánh khúc. Nhưng dì Khiêm không thấy làm bánh khúc
bao giờ. Mà ở ngoài đời bánh khúc cũng là một thứ ít
gặp. Cho nên cứ ở đâu nghe thấy có bánh khúc và vào những
lúc đang có tiền là thể nào tôi cũng nếm thử. Nhưng bánh
khúc người đời làm khác. Tôi không thấy có rau khúc mà
chỉ thấy một thứ bột mầu xanh xanh có mùi rau khúc. Chắc
là họ đã xay nhuyễn rau khúc ra hay chỉ vắt lấy nước rau
khúc rồi đem ngào bột. Họ cũng không nặn dài dài như lưỡi
lợn mà lại nặn tròn tròn như quả bóng bàn và bên trong
còn có cả nhân đỗ mỡ với hành nữa. Ăn bánh khúc họ
làm tôi thấy hương vị của nó gần với bánh hấp hơn, chứ
ít cái hương vị đặc trưng như bánh khúc của mẹ tôi làm.
Thứ hai là hương vị của mốc tương. Lần ấy nhà tôi đã có ngôi nhà năm gian kẻ truyền chồng chóp rồi. Ba gian giữa cửa bức bàn và hai gian buồng ổ khóa hai bên. Nhà lại đang có một tốp thợ nề lát sân gạch. Tôi chỉ được quanh quẩn chơi ở trên hiên quãng giữa hai cửa buồng chứ không được xuống sân. Cứ đến gần phía buồng mẹ tôi là lại thấy mùi mốc tương ngọt ngào sực nức. Tôi thèm, thỉnh thoảng cũng ấm ích đòi bố. Nhưng bố tôi đang hí húi bên tốp thợ ngoài sân chỉ quay vào gắt: " Đòi gì? Không được!". Mãi đến khi mẹ tôi đi chợ về, thấy bà cụ quẩy quang thúng vào bếp là tôi chạy xuống theo ngay. Tôi vừa mới đến cửa ngách buồng xuống bếp thì bà cụ cũng vừa quay lên. Tôi bám váy và chỉ lên nong mốc tương ấm ích. Bà cụ hiểu ý, vội vào nắm một nắm chim chim và đưa cho tôi. Chao ôi, sao nó mềm nhuyễn và ngọt lạ. Mốc tương thì năm nào chẳng có và năm nào tôi cũng đều nếm thử nhưng cứ thấy nó khô khô chua chua chứ không tìm lại được cái mềm nhuyễn của nắm mốc tương cũ nữa. Tương là một thứ nước chấm rất phổ biến ở làng quê. "Tương cà gia bản" mà. Ở làng tôi cà chỉ ăn mùa, ăn vụ. Hình như không có nhà nào có vại cà nén để ăn quanh năm như một số vùng làng quê khác. Nhưng tương thì nhà nào, năm nào cũng làm. Kỹ thuật làm tương cũng hơi phức tạp. Nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố: rang đỗ , ngâm nước đỗ, thổi xôi và ủ mốc tương...Tất cả các khâu ấy đều phải đạt một chuẩn nhất định thì tương mới ngon. Còn không thì phi chứng nọ cũng tật kia: hoặc chua, hoặc tức. Thành thử tuy nhà nào, năm nào cũng làm tương nhưng ít nhà làm được tương thật ngon. Tương làng tôi chủ yếu dùng để chấm rau muống luộc và kho cá. Thứ rau muống làng tôi ưa dùng là rau muống trắng, cấy ruộng. Rau muống đỏ người làng tôi chê nó cứng và chát. Người làng khác lại khen là bùi và đậm. Rau muống bè người làng tôi lại chê là nồng nên cũng ít dùng. Người làng tôi hầu như nhà nào cũng cấy một bạt rau muống trắng. Giữa bạt rau muống thể nào cũng phải có một khóm rau ngổ. Người làng tôi xem rau ngổ như một thứ rau thơm ăn cùng với rau muống luộc. Có người thì để ăn sống, có người thì cho vào luộc chín cùng với rau muống. Nhưng dù ăn sống hay luộc chín, đều phải ngắt bớt cái nõn non đi để cho khỏi đắng. Ngày ấy chưa có phân đạm u rê. Giống rau muống ưa nhất là khoản "tro đái". Mùa cấy rau muống nhà nào cũng thường có một thúng tro bếp để đi tiểu tiện vào. Đến khi thúng tro bếp thấm đẫm nước giải thì đem ra bón cho bạt rau muống. Chỉ vài hôm sau bạt rau muống sẽ xanh đen xanh thẫm. Nếu lại gặp một trận mưa rào thì ngọn sẽ kéo ra tua tủa và non mỡ màng. Thứ rau muống này mà hái về luộc chín tới rồi chấm với tương mới ngả thì mỗi bữa một vài chai tương phải đi bay. Món tương lại đặc biệt dậy mùi và hợp vị với món cá rô hấp. Tôi thường nghe người lớn ca tụng cái món ăn này lắm nhưng chưa một dịp được thực hành. Tương thì dễ rồi. Lá gừng cũng không khó kiếm. Khó nhất là chọn được loại cá rô để đem hấp. Cá rô ron, người làng tôi chỉ đem rán ròn hoặc vần cháy cạnh. Cá rô nhỡ thường chỉ được dùng để nấu canh bánh đa rau rút hoặc nấu canh rau cải. Chỉ có cá rô xù, loại to bằng bàn tay, bằng lá mít mới dùng để hấp tương gừng. Tình cờ một hôm tôi vác cần câu ra cống Ao Rồng thả chơi. Ngồi đã ê cả đít mà chẳng thấy động tĩnh gì. Tôi đã đứng dậy vươn vai chống mỏi và ngáp dài ngao ngán. Vừa định cuốn cành câu đem về thì thấy phao câu chìm ngỉm và đang bị kéo đi lừng lững ở dưới nước. Tôi vội vàng giật cần câu lên thì may quá lại được ngay một chú rô xù. Thế là tôi nghĩ ngay đến món hấp tương gừng. Tôi sỏi vẩy, cậy mang, mổ ruột rửa sạch rồi cũng khía ngang hai bên con cá đem để vào một cái bát chiết yêu. Thái thêm mấy chiếc lá gừng rồi lấy tương đổ vào cho sấp sảnh. Khi ghế cơm xong, tôi để bát cá rô vào hấp. Bữa tối hôm ấy tôi mới được kiểm chứng thế nào là cái thơm, cái béo kỳ lạ của cá rô hấp với tương gừng. Một món ăn rất đơn giản vậy thôi, nhưng với tôi mãi mãi nó cứ là đặc sản. Hương vị làng quê thường trở nên đậm đà và khó quên nhất là vào những ngày mùa vụ. Vụ gặt lúa chiêm là vất vả nhất. Thời tiết thì đã bắt đầu nắng oi mà còn hay gặp những trận mưa rào, mưa dầm. Những năm lũ về sớm, còn phải bì bũm gặt mò, gặt chạy ở những chân ruộng trũng. Gặt chiêm không cắt lấy phần gốc rạ mà chỉ cắt lấy phần bông lúa. Ở những chân ruộng cấy hai vụ thì phần gốc rạ này sẽ để "cày vận rạ". Người ta cứ để nguyên gốc rạ rồi cho trâu cày. Đất lật lên và thân rạ úp xuống. Cứ để thế ngâm chừng một tháng thì rạ sẽ thối. Lúc ấy người ta mới đem bừa ngả rồi lại tiếp tục ngâm thêm ít bữa nữa thì rạ sẽ thối hoàn toàn thành một lớp phân bón lót. Những chân ruộng trũng chỉ cấy được một vụ thì cứ bỏ mặc gốc rạ đấy, nó sẽ tiếp tục nảy nhánh, trổ bông gọi là "lúa chau". Bông lúa chau thường ngắn, hạt lép nên ruộng chau làng tôi chủ yếu dùng để thả trâu cho nó kiếm ngọn. Chỉ những năm "gạo châu, củi quê" mới thấy những nhà nghèo cho người đi tuốt lúa chau. Dụng cụ để cắt lúa chiêm gọi là "cái hái". Cái hái gồm có một "lưỡi hái" trông gần giống như một chiếc lược nhưng to và bầu bĩnh hơn một chút. Phần cong cong của lưỡi hái được mài mỏng và rẽ răng cưa sắc để cắt cổ bông lúa. Hai đầu lưỡi hái có hai cái chân nhọn để cắm chắc lưỡi hái vào với thân hái. Thân hái chỉ là một thanh gỗ dài dài vuông vuông: dày chừng một phân, rộng chừng năm phân và dài chừng năm mươi phân. Trên thân hái có ba lỗ đục. Đầu tiên là một lỗ đục dùng để luồn dây treo hái và khi gặt thì luồn cổ tay phải vào đây giữ hái. Lỗ đục thứ hai cắm một cái chốt ngang để cho bàn tay phải nắm chắc lấy thân hái. Đầu cùng phía ngoài thân hái có một lỗ đục thứ ba để gắn "mũi hái" vào với thân hái. Mũi hái là một thanh tre (hoặc gỗ) dài dài cong cong nhòn nhọn. Khi được gắn vào với thân hái, nó sẽ tạo thành với thân hái một "góc hái" để giữ cổ bông lúa lại. Phần cong cong của mũi hái quay ôm vào phía lưỡi hái. Khi thường phần mũi hái chính là thanh bảo hiểm. Nó loại trừ khả năng va quệt chân tay vào lưỡi hái dễ gây thương tích. Khi gặt nó lại là "cánh tay" nâng và gom các bông lúa dồn vào góc hái. Lúc ấy tay trái sẽ nắm lấy cổ bông và tay phải sẽ đặt lưỡi hái vào đẩy ra một cái "xoẹt". Cứ ba bốn nắm như thế là sẽ được một lượm lúa. Lúa chiêm ướt nặng, bờ ruộng chiêm lại ướt trơn, nên gánh lúa chiêm từ đồng về nhà quả là một công việc cực nhọc. Người lớn khỏe cũng chỉ gánh chừng ba mươi lượm. Còn bọn trẻ con chúng tôi, gò vai rụt cổ cũng chỉ mươi, mười hai lượm. Thế cũng đã mồ hôi mồ kê nhễ nhại và mồm tranh mũi thở rồi. Gặp những ngày nắng ráo còn đỡ. Gặp kỳ mưa dầm thì thật là bức xúc. Những cầu lúa chưa đập cứ xếp đấy gội mưa. Những đống thóc chưa phơi cứa đắp đống ở ngoài sân chờ ngày mọc mậm...Còn con người thì cứ ngồi trông mà bồn chồn ngao ngán. Trong những ngày mùa vụ như thế bữa cơm quê lại càng đạm bạc. Có được bát canh cua đã là ngon rồi. Còn không, lại chỉ rau muống luộc chấm tương hoặc nước cáy. Để cải thiện, chúng tôi thường đi bắt châu chấu. Cứ trời mưa là bọn trẻ con chúng tôi quần đùi, áo cộc, nón mê, mỗi đứa một cái chai chạy ra đồng vồ châu chấu. Trời mưa châu chấu bị ướt cánh nên không bay xa được. Mùa này cũng đúng "mùa tình ái" của châu chấu nên cô nào cũng cõng chồng trên lưng càng dễ bắt hơn. Nói vậy thôi chứ "các cô" cũng tinh quái lắm. Không bay được xa thì các cô cứ cõng chồng như thế mà nhao xuống nước, ngụp lặn và tìm chỗ kín để ẩn mình. Nhưng cũng chỉ quẩn quanh cái gốc rạ ấy thôi nên thể nào chúng tôi cũng tóm được. Cứ đầy chai hoặc tan mưa thì chúng tôi mới về. Tôi thường nút kín chai châu chấu để vào trong bếp, chạy sang ao nhà ông Hội Thỉnh nhảy ùm xuống đã. Quần áo ướt nên chúng bí hơi và căng phồng cả lên. Mà nước ao thì ấm lạ. Chẳng khác nào tắm nóng lạnh ngày nay. Ngâm mình trong nước ao lúc ấy thật là dễ chịu. Tôi cũng thường bơi ra ngọn cây ủi tầu để lần ủi. Đôi khi cũng được một vài quả ương. Tắm xong tôi mới về nổi lửa để "làm lông" châu chấu. Đun một nồi nước sôi lên, mở nút chai châu chấu ra, xóc mạnh cho châu chấu rơi vào nồi nước sôi. Khi châu chấu đã chết cả thì đổ nó ra rổ vặt cánh, vặt chân. Làm lông xong thì cho châu chấu vào nồi hoặc vào chảo tra mắm muối rang lên. Khi cạn thái thêm mấy cái lá chanh rồi rưới thêm một thìa mỡ lợn. Mùi châu chấu rang sẽ dậy lên ngay. Món châu chấu rang cũng là một món ăn ngon. Nó vừa giòn, vừa bùi, vừa thơm, vừa ngậy. Người làng tôi mệnh danh nó là "tôm bay". Chỉ cần cơm chan nước rau muống luộc và ăn kèm với châu chấu rang thì cũng khó mà biết no, biết chán. Dịp này thì ông Ủn và một số người làm nghề buôn bán ở làng tôi cũng thường "năng động" lên chợ Phả Lại hoặc đón thuyền ở ngoài sông Kinh Thày mua món cá khô "phèn chỉ" về đem "đổi đồng". Phèn chỉ là tên một loại cá khô ngon thời ấy. Mỗi con to chừng hai đầu ngón tay và dài chừng mười lăm phân. Hai bên mình cá có hai đường chỉ to đậm chạy suốt từ mang đến đuôi, phân biệt rõ phần lườn và phần bụng cá. Còn "đổi đồng" là hình thức mua bán đặc biệt của làng quê trong những ngày mùa vụ. Người ta không mua bán bằng tiền mà lại bằng những lượm lúa. Tùy thời giá mà mỗi chục con phèn chỉ sẽ tương đương với mấy lượm lúa chẳng hạn. Những khi ấy thì làng tôi cứ khói bếp là lại dậy mùi cá khô rán, cá khô nướng.Vụ gặt chiêm nào cũng phải có một vài lần dẵm phải ba ba. Bắt được ba ba thì bố tôi lại đem làm thịt nấu với chuối xanh và đậu phụ. Thịt ba ba có một vị béo ngon riêng. Ba ba nấu thường gia vị thêm lá tía tô và thính đỗ tương nên mùi vị cũng rất đặc trưng. Tuy ngon thật nhưng người làng tôi vẫn nghĩ là ăn nó độc: "Thịt gà, cá chép, ba ba / Ăn vào lại bảo là ma nó làm". Tết mồng năm tháng năm thì mùi rượu nếp lại thơm nức cả làng. Cứ khoảng mồng hai tháng năm là nhà nào cũng thổi một vài ống gạo nếp lức rắc men ủ vào một cái rá để làm rượu nếp. Ủ vài hôm thì rượu nếp ngấu. Đúng sáng mồng năm thì ăn "tết giết sâu bọ". Nhà nào cũng chuẩn bị ít hoa quả có vị chua như đào, mận, quéo...Ăn hoa quả xong thì mới ăn rượu nếp. Hoa quả chua ít người chuộng, thường chỉ ăn qua loa làm phép. Còn rượu nếp thì tha hồ. Bởi nhà nào cũng làm hàng rá. Ăn không thể hết được. Lại phải đem cho lẫn nhau. Nhà tôi đem cho nhà bác Hương, chú Đặng. Nhà bác Hương, chú Đặng lại đem cho nhà tôi. Chưa kể trong "cụ Vú" nhà dì Khiêm năm nào cũng đem ra cho nữa. "Bà Vú" bây giờ đã già, dân làng đã nâng cấp lên hàng "cụ Vú". Lưng bà cụ đã còng. Đầu cạo trọc, không đội khăn nên những chân tóc bạc mọc ra trông lởm chởm như một bông hoa gáo. Bà cụ mặc một cái váy đen mầu thâm đất và thường sắn cạp váy để kéo gấu váy cao lên đến lưng ống chân. Dễ đi lại. Cụ vẫn mặc cái yếm nâu che ngực và khoác cái áo cánh nâu bạc không mấy khi cài cúc.Vì đi xa nên cụ không bưng bát mà thường đổ rượu nếp vào một cái lá khoai ăn dọc, buộc túm lại. Tay phải chống gậy, tay trái cầm đùm rượu nếp, cụ lòng khòng lững thững đem ra cho các cháu. Sau này khi nghiên cứu và bổ sung "Đỗ Tộc gia phả", tôi mới biết cụ tên là Trần Thị Cạnh, người làng Nam Gián Đông vốn là nàng dâu của họ Đỗ nhà tôi, em dâu ông nội tôi và thím ruột của bố tôi. Cụ sinh cho họ Đỗ được ba người con gái: cô Đỗ Thị Nhân, sau này thành cô Ký Lợi, không có con và mất sớm; cô Đỗ Thị Hiền, sau này thành cô Ký Bắc rồi cô Trương Hồi, cũng chỉ sinh với ông Ký Bắc được một người con gái; cô Đỗ Thị Chung, sau này thành cô Phẩm. Hóa chồng cụ mới lấy đời chồng thứ hai sinh được hai trai một gái là Ngọc, Ngà, Khiêm. Nhưng Ngọc mất sớm, chỉ còn Ngà và Khiêm. Cũng vì có cái sự hay cho lẫn nhau thế mà năm nào tôi cũng được nếm đến ba bốn "nhà rượu nếp". Cũng mỗi nhà một vị. Nhà thì rắn, nhà thì nát; nhà thì ngọt, nhà thì chua. Nhà thì để "quá đát" đường đã biến thành rượu cả nên ăn cứ cay sè sè... Vụ cày bừa làm mùa tháng sáu thì cá tép và cua ngôm nhiều vô kể. Từng đàn cò đậu xuống kiếm ăn. Người bừa đi đằng trước, cò lò dò chạy theo sau để kiếm mồi, gần gũi cứ như vật nuôi trong nhà vậy. Còn chúng tôi cũng quên cả nắng trưa để mải mốt đi vồ cua ngôm. Những ngày ấy bữa cơm làng tôi lại canh cua, riêu cua liên tục. Sẵn có ông hàng xóm chuyên nghề làm bún, nên nhà tôi còn hay đổi bún để ăn với riêu cua. Bà Nái Vôi đi thì ông Sĩ lại đến. Tôi không biết ông ta từ đâu đến. Chỉ biết trên khuôn đất của bà Nái Vôi ở trước, bây giờ có ba bố con ông hàng xóm mới, chuyên nghề làm bún. Cô con gái cả tên là chị Bích. Chị Bích người tầm thước gọn gàng, nhưng phải cái hễ cười là để hở cả hai hàm lợi đỏ. Những lúc ấy mồm chị như chỉ toàn một mầu đỏ nên trông cứ thấy dài dại và vô duyên. Anh Sĩ là em, cao lớn giống bố nhưng lại bị chột mất một mắt. Cái mắt chột trông đục lờ, dại nghệch. Cả hai người con không ai được như bố, bởi ông bố trông cao to sáng sủa, có hai chòm ria khá cân đối ở hai bên mép. Nghề làm bún cũng lỉnh kỉnh khá nhiều nồi, nhiều chậu, rồi cối xay bột, cối giã bột...Gạo ngâm vài ba ngày cho chua rồi mới xay. Xay nhuyễn rồi lại phải để lắng, gạn thành một thứ bột dẻo. Bột dẻo ấy được nặn thành những cối bột to như cái dành tích rồi đem luộc cho chín dở. Lại đem cối bột chín dở ấy cho vào cối giã gạo giã cho nhuyễn ra. Lúc bấy giờ mới đem pha loãng cho vào môt cái túi vải vắt lọc thành một thứ bột vừa mịn vừa nhuyễn ra làm bún. Chị Bích là người trực tiếp ngồi vắt bún. Trước mặt chị là bếp đun. Trên bếp có một nồi nước to đang sôi sùng sục. Trong lòng chị là một cái mâm đặt khuôn vắt bún. Bên tay phải là chậu bột. Trong chậu bột có muôi múc và một miếng mo cau to bằng nửa bàn tay dùng để vét bột. Bên tay trái là một chậu nước lạnh. Chị múc bột đổ vào khuôn vắt, mở vung nồi nước sôi, vắt bún vào nồi theo một vòng tròn thuận kim đồng hồ. Những sợi bún chảy từ đáy khuôn ra được rải đều trên nồi nước sôi. Chị đậy vung lại. Một lúc thì những sợi bún đã được luộc chín. Nó nổi lềnh bềnh ở trong nồi. Chị dùng một cái vợt đan bằng tre vớt bún ra đổ vào chậu nước lạnh. Có hai loại bún. Loại "bún rổ" thì để bún rối. Loại này thì chị Bích chỉ vớt bún từ chậu nước lạnh, để chờ tí cho róc nước rồi đổ vào những cái rổ dứng, to nhỏ nhiều cỡ. Lớp trên cùng chị mới dùng tay kéo dài những sợi bún trong chậu nước lạnh rồi đem đặt khoanh tròn trên miệng rổ thành một cái vỉ đậy rổ bún lại. Loại "bún bìa" thì chị phải trực tiếp dùng tay kéo dài những sợi bún trong chậu nước lạnh, nhấc nó ra rồi khoanh, dặt thành những "bìa bún" trông giống như những cái đĩa. Những bìa bún này thường được lót bằng lá chuối là thứ lá rất sẵn ở làng tôi. Bún bìa là thứ người ta thường mua để "ăn quà". Cứ cầm tay thế mà xé ra hoặc cuộn tròn nó vào, chấm với mắm tôm chanh ớt mà ăn. Còn bún rổ thì người ta mua hoặc đổi thóc về ăn cả nhà. Tùy số người trong nhà mà đổi lấy rổ to hay rổ bé. Một rổ bún, một nồi riêu cua bác gạch cho hành thơm váng và nóng hổi. Thêm một rổ rau sống tổng hợp của nhiều thứ rau: những ngọn rau muống chẻ cuộn cong và sun soăn như những chiếc lò so; những lát rau chuối thái mỏng trông lốm đốm như những cánh hoa lan trắng; lại còn thêm loáng thoáng những ngọn rau ngổ, rau kinh giới cho thơm. Bún nguội, chan nước riêu cua nóng, ăn kèm với rau sống. Chỉ sụp soạt một lúc là cành bụng. Nhưng mà chóng đói. Vẫn nấu sẵn một nồi cơm chờ đấy phòng khi ngót dạ. Ngon thế mà chúng tôi lại không thích bằng lúc chầu chực xem anh Sĩ vắt bột. Anh vắt xong thì nài nỉ xin lấy những nắm cặn còn lại ở trong túi. Chúng tôi đem ra nặn thành những nắm tròn tròn như cái bánh giầy rồi đem vào lò nướng cho chín phồng lên. Ăn chỉ thấy giòn giòn, dẻo dẻo, chua chua. Đôi khi còn lẩm nhẩm sạn. Thế mà cũng cấu véo chia nhau, hí hửng lắm. Món riêu cua còn có thể ăn với bánh đúc. Bánh đúc thì nhà nào cũng tự nấu được, không phải mua. Gạo đem ngâm mềm để dễ xay thành bột. Pha thêm một ít nước vôi trong vào với bột gạo rồi cho vào nồi nấu chín. Nấu bánh đúc phải khuấy đều tay nếu không thì dễ khê, dễ cháy. Khi bột chín thì lấy một cái sàng, lót lá chuối rồi đổ bánh đúc cho chảy lênh láng ra cái sàng ấy. Nhưng dù có khuấy đều đến đâu thì ở dưới đáy nồi vẫn có một lớp cháy non mỏng. Bóc lớp cháy ấy lên, cuộn tròn lại, chia cho bọn trẻ con chầu chực mỗi đứa một miếng, cùng nếm náp. Tảng bánh đúc trong sàng khi nguội sẽ đông lại. Người ta đem cắt thái thành những thỏi vuông vuông con chì to bằng ngón tay, bốc vào bát, chan nước riêu cua nóng cho "ngập luống cày" rồi ăn kèm với rau sống. "Bánh đúc riêu cua" ăn không ngon bằng "bún riêu cua" vì trong bánh đúc có vị nước vôi nồng nồng. Nhưng chẳng lẽ cứ ăn mãi bún riêu nên thường ăn đổi bữa như thế cho lạ miệng. Làm hàng quà làng tôi còn có gia đình ông Vi. Nhà ông ở xóm giữa. Bên cạnh nhà ông Đĩ Tới, ngay cổng nhà bác Trương Giai. Khuôn đất ở thì hẹp. Nhà cửa thì tuyềnh toàng chẳng cổng ngõ gì. Ngay bên lối rẽ vào nhà có mỗi một cây vối to bằng cổ chân chơ vơ chọc lên trời và còm cõi vài cành lá thưa thớt. Gian bếp ở gần gốc vối. Ba gian nhà trên đắp tường chung quanh, nhưng tường thấp nên trông rất lụp xụp. Trước cửa có một chiếc cối xay bột. Gia đình ông Vi có năm người, hai vợ chồng và ba đứa con. Hai cô con gái tên là Nhứ lớn và Nhứ con. Cậu con trai út tên là thằng Tề. Thằng Tề năm đó chỉ độ ba bốn tuổi. Ba chị em cũng chỉ trứng gà, trứng vịt mỗi đứa hơn nhau chừng một cái đầu. Ông Vi người cao to, nói năng láu táu, để tóc hơi dài, cứ thấy phải dắt lên hai bên vành tai. Đi đâu mới thấy ông ta khoác thêm cái áo cộc tay. Còn ở nhà thì chuyên môn mặc cái quần đùi lửng quá đầu gối, mình trần suốt ngày ngồi xay bột. Nhà ông Vi chuyên gói các loại bánh tẻ, bánh mật, bánh khoai. Các loại bánh này trong ruột thì khác nhau nhưng bên ngoài thì cứ ngỡ như cùng một loại bánh. Bởi ông bà ấy toàn lấy lòng bàn tay trái làm khuôn, lót lá, đổ bột vào, gấp hai bên tả hữu lại, gấp hai đầu rồi lấy lạt buộc. Bánh gói xong mới đem luộc chín rồi đem đi chợ bán. Làng tôi thường gọi các loại bánh ấy bằng một cái tên chung là "bánh gù". Vì trông nó có cái lưng gù gù, dấu tích của cái lòng bàn tay vũm lại làm khuôn.Thỉnh thoảng chúng tôi cũng mua bánh gù nhà ông Vi. Bánh tẻ ăn chẳng khác gì ăn bột đặc. Khác chăng là có thêm mấy cái mộc nhĩ giòn giòn và một tí vị mỡ lợn ngầy ngậy. Bánh khoai ăn sậm sật hơn nhưng cũng chẳng khác mấy với ăn khoai sọ luộc. Bánh mật ăn cũng giống như ăn chè bột đường. Nhưng tôi ưa của ngọt nên tôi thích ăn bánh mật hơn cả. Nhưng rồi một hôm người làng tôi to nhỏ với nhau rằng ông Vi đã bị Ta bắt vì tội làm "chỉ điểm" cho Tây. Chúng tôi không thấy ông Vi ở nhà nữa thật. Một thời gian sau ông ấy được tha về. Chẳng hiểu ông ấy bị tra khảo thế nào mà người gầy ngẳng. Chỉ còn da bọc xương. Mà không đi lại được nữa. Suốt ngày ông ấy nằm trên giường, chổng hai đầu gối lên. Đầu gối thì to mà đùi thì tóp lại. Cẳng chân cũng tóp lại. Ít hôm sau thì ông ấy chết. Tôi đi qua nhìn vào, chỉ thấy một chiếc chiếu lùm lùm đắp lên cái xác. Đôi chân vẫn còn thò ra ngoài. Đầu giường có một ngọn đèn con leo lét cháy. Một nén hương đơn độc tỏa mấy sợi khói mảnh mai. Không thấy một bóng người thăm viếng. Mãi đến tối mới có một vài người đem xác ông ấy đi chôn. Sau hôm đó, bốn mẹ con bà Vi cũng dời làng tôi. Không biết là đi đâu...? Bắt đầu gặt mùa thì vụ rươi cũng đến. Thỉnh thoảng lại thấy người gánh rươi đi qua làng "Ai mua rươi không?". Rươi ngày đó nhiều và cũng rẻ. Làng tôi hầu như nhà nào cũng mua dăm ba bát. Rươi thường được người làng tôi chế biến làm ba món chính: rươi kho, canh rươi và chả rươi. Rươi kho thì bỏ rươi trực tiếp vào nồi tra thêm mắm muối mỡ lợn vào rồi đem nấu chín. Đây là món đoảng vị nhất. Đã không ngon mà ăn vào bụng dạ còn rất hay sậm soẹt. Món canh rươi hấp dẫn hơn. Canh rươi nhất thiết phải có măng, có khế. Gia vị thêm là vỏ quýt, lá nốt và ớt tươi. Nhưng trời đất hình như cũng tính trước cả rồi. Cứ đến vụ rươi là tre làng cũng đâm một lớp măng. Lớp măng ấy làng tôi cũng gọi là "măng rươi". Những cây khế chua ở trong làng cũng đung đưa một lớp quả. Quả khế hãy còn xanh, chưa đẫy nên trông còn dúm dó. Có lẽ vì thế chăng mà người làng tôi gọi nó bằng một cái tên rất tục "quả l...treo". Cứ có rươi là y như chúng tôi phải ra bờ tre nhòm nhòm ngó ngó để lận măng. Tre nhà không có thì phải sang nhà hàng xóm mà bẻ trộm. Măng về đem bóc vỏ, thái mỏng luộc trần đi một lượt cho bớt đắng. Rồi lại phải đi xin "quả l..treo" về, gọt sơ mép múi, thái ngang thành những lát trông giống như những con sao biển, dày độ vài li...Tất cả cho vào nồi nước đem nấu chín. Bát canh rươi trông thứ nào ra thứ ấy: măng ra măng, rươi ra rươi mà khế cũng ra khế. Chả thứ nào lẫn lộn và gắn bó với thứ nào. Nước canh rươi lờ lờ khói đục nhưng là thứ đục rất trong, rất thuàn khiết bởi không có vẩn. Có lẽ, cái vị chua của khế đã làm nó lắng cặn cả đi chăng? Cái vị ngon của canh rươi được tạo ra bởi tổng hợp cái mềm ngọt của rươi, cái ngăm ngăm giòn giòn của măng, cái dai dai chua chua của khế và cái cay, cái thơm của các gia vị. Nhưng điếc mũi nhất là món chả rươi. Rươi, trứng gà, thịt ba chỉ, vỏ quýt, lá lốt, nước mắm ngon,... tất cả đều thái nhỏ đánh tơi và trộn đều vào nhau thành một thứ keo đặc. Đổ thứ keo đặc này vào chảo mỡ lợn đang đun nóng ở trên bếp, chỉ vài giây sau là mùi thơm sẽ bốc lên ngay. Mùi thơm chả rươi của nhà này bay sang nhà kia để khoe. Mùi thơm chả rươi của nhà kia lại bay sang nhà này khoe đáp lễ. Cứ thế chúng đi khắp hang cùng ngõ hẻm để làm thơm váng mũi người. Nhưng rồi rươi cứ hiếm dần. Đầu tiên món rươi kho bị loại. Đến lượt canh rươi cũng ra khỏi thực đơn của người làng tôi. Hàng năm vụ rươi đến người ta chỉ cố mua lấy một vài lạng rán đĩa chả rươi ăn cho đỡ nhớ. Bây giờ thì ở xứ rươi người ta đã phải đi nhặt từng con một. Giá một cân rươi đã lên đến ba bốn trăm nghìn đồng. Chả rươi chỉ còn là một món ăn nếm của các bậc đại gia! Gặt lúa tháng mười khác với gặt lúa chiêm. Tháng mười đồng khô, lúa khô. Người ta dùng liềm cắt sát gốc lúa đem xếp thành từng mô một. Khi các mô lúa đã nhiều nhiều thì một người trong đám thợ gặt sẽ dùng một thứ liềm to hơn và dài hơn gọi là "liềm sén" đi sén ngang mô lúa. Phần gốc sẽ thành các mô rạ. Phần ngọn người ta lấy mấy dảnh lúa làm dây chít cổ, nâng lên trước ngực, dùng tay phải quay tròn một vòng thế là sợi dây sẽ soắn chặt cổ mô lúa lại. Mô lúa được buộc chặt lại rồi thì gọi là "lượm lúa". Động tác buộc các mô lúa lại như thế cũng gọi là động tác "lượm lúa". Những người nông dân lành nghề lượm lúa rất nhanh và điệu nghệ. Trông cũng không khác mấy với một nghệ sĩ xiếc đang diễn trò tung hứng.Tháng mười ngày ngắn nên bữa trưa thợ gặt thường ăn cơm ngoài đồng. Bữa ăn cũng thường rất giản tiện. Chỉ có một rá xôi nếp và một lọ muối vừng. Thợ gặt nghỉ tay thì cứ véo xôi trong rá, nắm chim chim rồi chấm với muối vừng mà ăn. Không có bát đũa mâm nồi gì lỉnh kỉnh cả. Đàn ông thì nước chè tươi thuốc lào. Còn đàn bà thì nước vối. Nhưng đa phần chỉ toàn uống nước lã, bởi họ quen bụng rồi. Uống nước lã cũng không sao mà chỉ thấy mát ruột. Ngày gặt, đêm về lại đập lúa cho đến tận khuya. Người lớn đập lúa, trẻ con thì rũ rơm. Rũ rơm là cởi bỏ dây buộc cổ lượm rơm ra, rũ lấy những hạt thóc còn dắt lại trong lượm rơm. Rơm được rũ rồi thì đem vứt thành một vòng tròn quanh sân để gà gáy dậy sẽ bừa rơm. Bừa rơm là khâu cuối cùng dùng sức trâu kéo và răng bừa để tuốt nốt những hạt thóc lửng còn lại ở bông lúa. Thóc ruông, thóc lửng để riêng dùng để chăn gà, chăn vịt.Còn rơm thì đem phơi khô, đánh đống làm thức ăn cho trâu trong những ngày mùa đông cây khô lá vàng, hiếm cỏ. Nước con sông Đào độ này đã bỏ bờ rút xuống lòng sông. Tôm cá cũng dồn cả xuống đấy. Những ngày chưa gặt hoặc vãn việc gặt hái, tôi và bố tôi thường ra kéo vó tôm ngoài bờ sông Đào. Những chiếc màn cũ không dùng nữa đem cắt ra thành những vuông mỗi chiều độ bảy tám mươi phân, khâu bốn cái nhôi ở bốn góc rồi buộc vào với hai thanh tre bắt chéo dấu nhân chồng lên nhau ta sẽ được một chiếc vó tôm. Chỉ vài cái màn hỏng là làm được mươi, mười hai chiếc vó tôm. Kéo vó tôm phải chọn những ngày trời quang mây tạnh. Những ngày vẩn trời tôm không đi ăn. Cứ chiều tối là rang cám thơm lừng hàng xóm. Cám rang đem trộn sền sệt với nước cho vào một cái ống cân có đục lỗ, luồn dây đeo vào ngang hông. Vai vác chồng vó tôm, tay cầm cần kéo vó và một cái rổ hai dóng đặt vào một chiếc quang treo tôi đi ra bờ sông Đào đặt vó trước. Định đặt vó chỗ nào thì lấy cần kéo vó khua khoắng thử xem có bằng bặn hoặc có cây que cỏ rác gì không. Nếu được thì dấp nước vó tôm cho ướt, vứt vào giữa vó một ít thính cám rang to bằng ngón tay rồi từ từ đặt vó xuống. Mỗi vó đặt cách nhau chừng mươi thước.Cứ đặt vó xong thì trời chạng vạng là vừa. Đặt sớm hơn, tôm chưa đi ăn, chỉ toàn thấy đòng đong cân cấn và xí cờ vào vó rỉa mồi. Khi tôi ra bờ sông Đào đặt vó trước thì bố tôi cũng đem thính rắc xuống rãnh đằng sau nhà để dử cá ở ngoài ao Rồng vào.Cái rãnh đằng sau nhà tôi và nhà chú Đặng là do gánh đất đổ vườn của ba anh em xóm đống Xộp mà thành. Cái rãnh này có một cái cống rộng chừng một mét nối ra với ao Rồng. Giống cá tối thường lên chỗ nông tìm mồi kiếm ăn. Nhưng đến khuya chúng lại tìm về chỗ cũ. Lợi dụng tính chất này bố tôi đã ken đăng, đan "nhạy" hứng chỗ cống này để bắt cá. Tối dùng thính thơm để dử cá lên ăn. Khuya thì dùng đăng vít chặt cống lại. Lúc cá về bị chắn lối chúng sẽ tìm cách nhảy qua đăng. Nhưng chúng không thể nhảy ra ao Rồng được nữa mà chỉ nhảy vào "nhạy" của bố tôi đã hứng sẵn ở trên cống rồi. Chúng cứ tha hồ dãy dụa, lồng lộn cho đến khi tróc vẩy khô da chịu nằm ườn ở đó chờ vào nồi cá kho cá rán của nhà tôi. Hay ăn chặn cá của nhà tôi chỉ có lũ rắn đủ loại: hổ mang, cạp nong, cạp nia, rắn ráo...Nhưng để bắt bọn này bố tôi lại rải vây xung quanh "nhạy" những đoạn lưới bén được cắt ra từ những tay lưới cũ. Bọn rắn bò ra vướng lưới cũng cứ nằm chờ đó mà chịu chết. Thường thì cứ đặt vó xong là bố tôi cũng ra. Tôi kéo vó còn bố tôi thì xách rổ theo sau. Trong rổ bây giờ đã được đặt thêm vào một cành lá tre tươi để tôm không nhảy ra ngoài rổ được. Tôi cứ từ từ kéo vó lên. Khỏi mặt nước mà nghe tiếng tôm nhảy lạch xạch là bụng đã mừng rơn. Chỉ cần vài ba con tôm thôi là tiếng lạch xạch nghe đã nhộn nhạo lắm rồi. Tôi nghiêng vó hất nhẹ tôm vào rổ, nhón thính để vào rốn vó rồi lại từ từ đặt vó xuống như cũ. Cứ kéo hết một lượt, nghỉ một lát thì lại kéo tiếp đợt hai. Buổi kéo vó tôm dài ngắn không định trước được. Hễ còn nghe tiếng tôm nhảy lạch xạch thì còn cứ kéo. Đến khi nào kéo vó lên cứ im phăng phắc thì tức là tôm đã thôi không đi ăn nữa. Có hôm thì mười giờ, mười rưỡi mới về, mà có hôm chỉ tám rưỡi, chín giờ đã về. Hôm nào sẵn tôm, ham kéo về khuya thì phải được đến vài cân tôm. Mẻ tôm trông đã lưng lửng cái rổ hai dóng mà xách đã thấy nặng tay. Nhưng cũng có hôm chỉ dăm bảy lạng, một cân...Thường thì cứ khi kéo vó tôm về, bố tôi mới đi chít đăng ở cửa cống ra ao Rồng. Tôi thì tở vó ra phơi. Còn rổ tôm cứ để nguyên thế treo ngoài dây thép phơi sương. Đến sáng hôm sau tôm vẫn cứ sống và tươi nguyên. Nhiều hôm tôm rang trong nồi chưa hết lại phải đem đồ lên, phơi khô để dành ăn sau. Cũng có mẻ thì đem giã mắm. Tôm nhặt sạch cho vào cối giã nhỏ thành một thứ bột nhão. Cho bột tôm vào lọ, vào hũ... lấy vải màn buộc miệng để tránh ruồi vào đẻ trứng. Ba bốn ngày sau bột tôm sẽ thối và thâm đen lại. Đó chính là mầu đặc trưng của mắm tôm. Bấy giờ mới cho muối, thính gạo nếp và mấy chén rượu vào rồi trộn cho thật đều. Lọ mắm tôm này để ngấu sẽ thành thứ mắm tôm loãng đặc hiệu. Khi ăn chỉ cần múc ra bát, vắt chanh, thái ớt vào lấy đầu đũa khoắng cho thật kỹ. Bát mắm tôm sẽ sủi bọt và ngả mầu trắng bạc. Loại mắm tôm này đem chấm với đậu phụ, bún bìa, thịt chân giò luộc...thì chỉ có nhất. Sớm sớm bố tôi cũng thường đi ra ngoài "nhạy" xem có cá nhảy không. Ít nhiều hôm nào cũng thấy có. Thỉnh thoảng lại có hôm gặp rắn mắc lưới. Ông cụ thường đập chết rồi mang về làm thịt. Treo con rắn lên cao. Lấy dao khoanh cổ nó một vòng. Lấy móng tay lách vào da cổ, cầm chặt, lôi tuốt xuống phía đuôi để lột da. Bóc ruột, chặt đầu cùng với da vứt đi. Ông cụ chỉ lấy phần thân con rắn. Dùng dọng dao dập xương đi một lượt rồi chặt khúc, băm viên cho thật nhỏ. Cho hành, răm, nước mắm trộn đều viên thành viên rồi rán lên thành "chả rắn". Chả rắn ăn khô nhưng thơm và cấm cúc giòn hơn chả cá. Khi những chân ruộng ở cánh đồng dưới làng tôi bắt đầu cạn còn sấp sảnh bờ là chúng tôi hay rủ nhau đi "tát ỏi". Chọn lấy một thửa ruộng ở ven chuôm, ven ao hoặc ven sông, ven ngòi sâu, bốc bùn be bờ quây kín lại. Chỉ để hở một đoạn ngắn xuống chỗ nước sâu thôi. Tối đến thì rang cám làm thính rắc xuống ruộng để dử cá lên ăn. Nửa đêm thì ra đắp kín chỗ hở lại rồi mỗi đứa một chiếc gầu sòng tát nước ra. Tùy nước nông nước sâu, ruộng to, ruộng nhỏ mà rủ số người tham gia cho thích hợp. Suốt đêm ấy phải thì thòm tát nước. Thỉnh thoảng lại phải xách đèn chai đi kiểm tra xung quanh bờ xem có chỗ nào núng thế thì phải kịp thời bồi đắp ngay cho vững. Hễ để vỡ bờ là hỏng ăn. Tát cạn xong thì bắt cá, mò tôm...Bắt xong thì chia chác. Tính toán thế nào cho cứ sáng ra là xong việc. Tát ỏi kiểu này hay được nhiều cá mương, cá mại là những giống ham ăn, ăn đàn và ăn nổi. Cá mương độ này đã to và rất béo. Cá mương là loại cá nhiều xương nhưng xương mềm. Đem rán ròn nhất là đem kho với dưa chua thì ăn rất tuyệt. Cá kho dưa có mùi thơm chua và cũng dậy làng nước. Mùi cá kho dưa thường gợi dậy trong tôi cảnh làng quê yên ấm trong những ngày se lạnh. Thời ấy làng tôi vẫn còn làm ăn cá thể. Đã nghe nói đến Chủ nghĩa xã hội rồi nhưng nó vẫn còn ở thì tương lai. Người nông dân vẫn còn được tự do làm ăn trên mảnh ruộng của mình. Thật may là tôi vẫn còn giữ được một giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất của nhà tôi được UBHC tỉnh Hải Dương cấp tháng 5 năm 1956. Căn cứ vào giấy chứng nhận này tôi được biết nhà tôi lúc đó có 7 thửa ruộng cộng tất cả là 3 mẫu, 3 sào, 2 thước. Trong đó có 1 mẫu 3 sao ở khu Đống Cao chỉ cấy được một vụ chiêm; 1 mẫu 2 sào 10 thước (gồm 5 thửa và ở 3 khu đồng) chỉ cấy được một vụ mùa và 8 sào 7 thước cấy được cả hai vụ chiêm mùa. Thổ cư 1 sào. Ao 1 sào 8 thước. Vụ chiêm người làng tôi chủ yếu cấy giống chiêm chanh. Nhưng vụ mùa thì cấy rất nhiều thứ. Những chân ruộng trũng thường cấy lúa tám đen. Chân ruộng cao thường cấy tám muộn, dự lùn. Chân đám mạ vì phải cấy sau cùng nên hay cấy nếp con, nếp cẩm. Cơm làm ruộng, cá kiếm ăn. Sản phẩm nông nghiệp còn ênh hềnh rẻ rúng. Làng tôi nhà nào cũng cấy giống thóc ngon để làm thóc nhà ăn. Nhà tôi có 8 sào 7 thước khu đồng Hàng chuyên cấy dự lùn lấy thóc nhà ăn. Giống dự lùn nhỏ hạt nhưng được thóc. Sản lượng lúc đó cũng được khoảng từ tám mươi đến một trăm ký một sào. Cơm gạo dự thơm và mềm. Cứ mở vung nồi cơm ra là cả nhà thơm nức. Cơm nguội gạo dự ăn vẫn mềm và thơm. Nếp cũng cấy thứ nếp ngon, thường là nếp cái, nếp hoa vàng. Nếp con nếp cẩm cấy chân đám mạ chỉ để nấu rượu "cuốc lủi" hay ủ rượu cẩm thôi chứ chẳng mấy ai ăn. Giống nếp cái thơm từ cây rơm cây rạ. Hạt thóc nếp cái có cái ria đen rất dài. Phải gấp rưỡi, gấp đôi chiều dài hạt lúa. Cơm nếp cái thì dẻo và thơm lạ. Nhà nào nấu cơm nếp cái thì cả xóm đều biết. Nhất là lại cho thêm ít hành mỡ vào thì hàng xóm càng "điếc mũi". Nhưng nấu cơm nếp cái khó. Sơ ý một tý là nát. Gạo nếp cái vì thế thường dùng để đồ xôi. Nhà tôi năm nào cũng cấy hai sào nếp cái. Chủ yếu để lấy gạo ăn sáng và gói bánh chưng tết. Nhiều khi sáng ra trông thấy bát cơm nếp đã ngán rồi, lại chỉ thèm được bát cơm gạo dự nguội. Về mùa này cô Cai Viêm nhà tôi cũng hay làm bánh giầy: Bánh giầy đường và bánh giầy đỗ. Nhưng cô không làm bánh giầy giò. Viêm là tên chồng. Tên thật cô là Đỗ Thị Nghiêm, con gái cả vợ hai cụ Lệ Trường- chú ruột của bố tôi. Chú Cai Viêm người ở đâu vùng Gia Lộc. Chú làm cai lính khố đỏ đóng ở đồn Phả Lại. Nhân duyên lấng cấng thế nào lại kết với cô Nghiêm nhà tôi thành đôi chồng vợ. Giải ngũ chú về làm giai tế ở làng tôi. Chú người cao, mũi hơi lõ lại nhòm mồm. Da mặt trắng mà lúc nào cũng hồng hồng mầu rượu. Đôi mắt lúc nào cũng như hơi lè vè. Giọng nói tuy không lè nhè nhưng vẫn rõ ra giọng người say. Nhưng thổi xôi và giã bánh giầy thì chú lành nghề. Chú chuyên làm bánh để cho vợ đem đổi đồng hoặc đi chợ bán. Chú lại là người thích nuôi chim và dạy chim nói tiếng người. Có một lần chú nuôi được một con quạ và dạy được nó biết nói. Bọn trẻ con chúng tôi tò mò nên rất hay đến xem. Chẳng thấy chú có lồng son bát sứ gì cả. Chú nhốt nó trong một cái nơm như người ta nhốt gà. Bọn chúng tôi đến vây chung quanh nơm nhìn xem nó. Nó cũng lấc láo nhìn ngó lại chúng tôi và nói "Rượu đậu...rượu đậu...". Chúng tôi lại cười ồ cả lên thích thú. Một thời gian sau lại nghe tin chú mới dạy nó nói thêm được câu nữa. Chúng tôi lại đến. Chúng tôi mới đến đầu sân thì đã nghe nó nói "Nhà có khách...nhà có khách". Khi vây quanh nơm xem nó thì nó lại nói "Rượu đậu...rượu đậu...". Xem con quạ này ở trong nơm, tôi lại nhớ tới những con quạ lạc đàn hay bị chè pheng đánh ở trên trời. Con quạ phải to gấp đôi con chè pheng. Chắc có đàn có đôi thì chè pheng không làm gì được. Nhưng quạ mà lạc đàn gặp chim chè pheng thì thể nào cũng bị chúng xúm lại đánh ngay. Cứ đang chăn trâu thả đống mà nghe thấy "chè..pheng pheng...", "Quà...quà..." là y như rằng đang có một trận không chiến. Phải từ ba đến năm con chè pheng xúm lại thay nhau lao từ trên xuống mà mổ, mà đạp vào đầu, vào lưng con quạ. Mỗi lần đạp, mổ như thế nó lại kêu "chè...pheng pheng". Con quạ thì hốt hoảng sải cánh bay, vừa chịu trận vừa kêu cứu "Quà...qùa!"... |
10. Giỗ chạp |
Hàng
năm cứ đến chừng độ hai mươi tháng mười là ba anh em
xóm Đống Xộp lại rủ nhau vào ông trưởng để hỏi giỗ.
Hỏi giỗ tức là hỏi ý ông trưởng xem năm nay định tổ
chức giỗ bố, giỗ mẹ như thế nào? Nếu ông trưởng bảo:
"Năm nay thất bát hoặc đang có khó khăn riêng, tôi chỉ lưng
cơm quả trứng kính cáo các cụ thôi". Năm ấy các ông
thứ, ông út sẽ tự lo liệu: hoặc hàn âm cúng riêng ở nhà,
hoặc đóng góp tí chút để đến ngày kỵ nhật thì bảo
vợ con ở nhà, một mình vào làm giỗ với ông trưởng. Còn
nếu anh trưởng bảo "Năm nay được mùa, kinh tế cũng tạm
dư dật, tôi cũng định làm mươi mâm để họp mặt anh em
con cháu"...Thế thì năm ấy làm giỗ chung, các ông thứ,
ông út phải góp giỗ cho ông trưởng. Mời mọc những ai đó
là quyền ông trưởng. Các ông thứ, ông út sau khi đã thỏa
thuận được với "bà trưởng" trưởng về khoản đóng góp
tài chính, thì đến ngày kỵ nhật, chỉ việc đưa cả vợ
con đến nhà ông trưởng tham gia làm đám giỗ, rồi trước
cúng sau ăn. Riêng về khoản đóng góp tài chính thì ông trưởng
năm nào cũng chỉ phán một câu rất đường lối "Đóng góp
bao nhiêu là tùy các chú". Mà thế cũng đúng thôi, vì khi chia
ruộng đất thừa kế cho các con, ông bà tôi đã để riêng
cho ông trưởng một thửa ruộng rộng hơn một mẫu ở khu
gốc bồ kết làm ruộng tự điền rồi. Cây bồ kết không
còn. Không ai rõ nó to lớn rườm rà và gai góc như thế nào.
Cũng không biết ai là người đầu tiên đến đây khai phá
chặt đốn cây bồ kết và thửa ruộng này đã qua tay bao
nhiêu đời chủ ? Người làng tôi chỉ gói nó trong một cái
tên rất ngắn gọn "Mẫu bồ kết". "Mẫu bồ kết" nằm gối
đầu lên đống Mả Bà và chỏa chân ngay mép bờ con Sông
Đào, vừa gần làng lại rất thuận tiện nước nôi. Nó thuộc
loại bờ xôi ruộng mật năm hai vụ lúa. Dành thửa ruộng
này làm ruộng tự điền là ông bà tôi đã rất ưu ái cho
ông trưởng rồi. Như vậy về lý thì ông trưởng phải gánh
vác việc cũng giỗ cha mẹ. Bảo các ông thứ, ông út tùy
tâm đóng góp cũng là rất phải. Nhưng "bà trưởng" mới là
người trực tiếp lo toan việc thu chi tính toán. Trong đầu
" bà trưởng" chắc chắn là đã có sẵn một bản dự toán:
làm bao nhiêu mâm, tổng chi phí mất bao nhiêu, ông trưởng
chịu bao nhiêu, các ông thứ, ông út mỗi người phải gánh
bao nhiêu...Cho nên không phải cứ tùy tâm bao nhiêu "bà trưởng"cũng
nhận cho đâu. Nếu "dưới ngưỡng" thì "bà trưởng" sẽ bảo:
" Nếu chú khó khăn thì chú cầm về, chị không nhận đâu!".
Thế là các ông thứ, ông út cứ phải về mà lo thêm tiền
đóng góp cho "đủ ngưỡng". Năm nào tôi cũng thấy cứ sau
khi đi góp giỗ về là các vị lại bậm bục với nhau,
không thoải mái.
Những năm làm giỗ chung thường hay tổ chức vào ngày giỗ ông. Làm giỗ chung thì chúng tôi được vào nhà bác Lý Khang ăn cỗ. Bọn trẻ con chúng tôi thường được bố trí ăn ở "mâm trẻ con". Hàng chục đứa xúm quanh một mâm cỗ " lào nhào như chào mào mổ gấc". Đứa gắp, đứa bốc, đứa ăn, đứa khóc, đứa giằng giọ nhau rất chi là lộn xộn. Bởi thế "mâm trẻ con" nào cũng phải có một, hai người lớn trông coi để giữ gìn trật tự. Các món xôi, món thịt mỡ luộc thì chia đều ra cho mỗi đứa một phần. Đưa nào nhút nhát chậm chạp thì phải gắp, sẻ cho chúng ăn. Đứa nào sắc sói lanh chanh thì phải can thiệp... cũng khá là vất vả. Nhưng được cái đám trẻ con chúng tôi "đánh nhanh, hết chóng". Chỉ một loáng là chúng tôi đã buông đũa bát và cầm phần xôi thịt của mình đứng dậy rồi mỗi đứa chạy đi một ngả. Đứa ra bám mẹ. Đứa ra bám bà. Còn tôi, tôi chạy luôn về nhà chứ không dám sán bố. Bởi bố tôi ngồi ăn cỗ ở nhà trên có đông khách khứa. Năm làm to thì mời đủ đại diện các hộ nội ngoại. Năm làm vừa thì chỉ mời đến đại diện các chi nội ngoại thôi. Nhưng năm nào tôi cũng thấy ở nhà trên đông chật. Mọi người ăn uống, cười nói, trò chuyện rất ồn ào. Tôi rất ngại lên đó.Với lại tôi đã có "kinh nghiệm xương máu" vì một lần "sán bố" mà ăn đòn rồi. Lần ấy, vào đầu năm 1950, chị Khang tôi đi lấy chồng. Chị lấy anh Đồng Tố Soạn trên làng Nam Gián Đông. Anh đã có một đời vợ và một đứa con trai tầm tuổi tôi. Vợ anh, trong một lần chạy càn, đang lội qua Sông Đào thì bị tây bắn chết. Còn chị Khang lúc đó vẫn là một gái tân chừng hăm nhăm, hăm sáu tuổi. Nhưng gái quê như thế cũng là vào loại muộn . Ngày ấy đã thực hiện cưới xin theo nghi thức "Đời sống mới". Các đám cưới thường tổ chức rất giản dị, tiết kiệm. Nhất là bên nhà gái, cỗ bàn thường do bên nhà trai cung cấp, nên thường tổ chức rất hạn hẹp, để khỏi mang tiếng với dân làng là còn "thách cưới", còn "hủ lậu", không khéo lại còn rày rà với chính quyền nữa. Nhưng dù là giản tiện thế nào thì bố tôi vẫn vào diện phải mời. Nhưng trước khi đi bố tôi đã dặn tôi không được vào nhà đám. Tôi chạy sang nhà thím Đặng chơi. Nhưng khi về thì thấy nhà khóa cửa. Thế là tôi cứ long tong chạy vào cổng nhà đám. Cũng chỉ định gọi bố để lấy chìa khóa thôi. Nhưng bố tôi thì lại nghĩ rằng tôi cố tình không nghe lời, nên ông hằm hằm chạy ra rút ngay một đoạn que rào vụt tôi tới tấp và đuổi về. Từ trong nhà đám tôi thấy có nhiều người can với ra: "cho cháu nó vào đây!". Nhưng bố tôi không nghe và càng đánh tôi đau hơn. Tôi ôm đít chạy về. Đến đoạn đầu nhà bác Lý Tín, không thấy bố đuổi nữa, tôi bèn ngồi lại khóc hờn. Vừa khóc vừa gào bố. Lúc ấy chị Khang mới chạy ra. Chị định dỗ tôi và dắt tôi vào. Nhưng tôi càng hờn và dãy dụa hơn. Chị bất lực, đành chỉ nhìn tôi ầng ậng nước mắt. Một lúc sau chị đành phải bỏ về. Thế là ngày chị đi lấy chồng, em được trận lằn mông. Không ngờ cái đám cưới không được ăn cỗ ấy lại thành ra một kỷ niệm sâu sắc. Mười ngày sau lại đến ngày giỗ bà. Ngày giỗ bà rất ít khi được làm chung. Nhưng năm nào bố tôi cũng làm giỗ riêng ở nhà. Năm thì bố tôi đồ một chõ xôi, nấu một nỗi chè làm mâm chay cúng cụ. Năm thì bố tôi lại mổ một con gà làm mâm cỗ mặn cúng cụ. Ấy là ngày giỗ "bà già". Ngoài bà già ra tôi còn những hai "bà trẻ" nữa. Bà hai đẻ ra chú Tặng nên chúng tôi thường gọi là "Bà Tặng". Còn bà ba đẻ ra chú Sen thì chúng tôi lại thường gọi là "Bà Ba Sen". Bà Ba Sen còn trẻ lắm. Khi ông tôi mất bà mới độ khoảng bốn mươi tuổi. Hai con thì đều còn nhỏ cả, ở quê chồng không biết dựa vào ai nên bà đã đem con về quê mình ở. Rồi bà tái giá lấy đời chồng thứ hai. Nhưng bà cũng không sinh thêm được ai nữa. Mãi về sau khi con lớn bà mới phải theo con về quê chồng cũ ở. Cũng chỉ được hơn chục năm, đến năm 1971 phân lũ thì gia đình chú Sen cũng di cư lên Bình Giang ở. Bà Sen vốn là một người có nhan sắc. Đến tuổi già rồi nhưng trông bà vẫn đẹp. Nhưng bà hoàn toàn "đóng băng" với chúng tôi. Có thời bà ngồi bán hàng nước ở Quán Năm Gian, cách thị trấn Nam sách cũ về phía Hải Dương chừng vài trăm mét. Thứ bẩy chủ nhật nào tôi cũng học ở Hải Dương đi về qua đây, nhưng cứ chợt nhìn thấy tôi là bà lại vội nhìn lảng đi ngay. Chưa có một lần nào bà gọi tôi vào quán. Cũng chưa một lần nào bà hỏi thăm tôi được một vài câu. Sau này, khi đã về làng tôi ở, tôi cũng không thấy bà đi lại chơi bời với các bác các chú tôi bao giờ. Cũng có một đôi lần bọn anh em con chú con bác chúng tôi tổ chức lên thăm bà, nhưng bà cũng chỉ tiếp chúng tôi một cách hững hờ gượng gạo. Ngay cả trong những lần giỗ chạp ông bà nội tôi, tôi cũng không thấy bà có mặt? Mãi đến năm 1981 Bà Ba Sen mới qua đời. Chỉ có Bà Tặng là ít nhiều gợi cho tôi cảm giác gần gũi của một bà nội. Có lẽ vì bà là người cùng làng và cùng họ với mẹ tôi. Đột nhiên tôi nghĩ rất có thể chính bà đã là người "đánh mối" cho cuộc nhân duyên của bố mẹ tôi ? Thế là tôi lại về làng để thẩm định cái suy nghĩ ấy. Tôi hỏi bà mẹ kế tôi. Bà cụ sau hai tháng nằm bất động để điều trị gãy xương, nay đã hai tay chống cái ghế nhựa lom khom đi lại trong nhà được rồi. Trông bà cụ đi cứ như người ta đang "úp nơm" trong cái nền nhà vậy. Bà cụ cho biết Bà Tặng không những đã "đánh mối" cho bố mẹ tôi mà còn "đánh mối" cho cả chú thím Đặng tôi nữa. Thảo nào mà ngày còn sống ma Bà Tặng, cụ rất hay ra nhà tôi và chú Đặng chơi. Bà Tặng trông người giản dị. Mùa rét bà thường mặc cái áo bông trần hạt lựu đã dung dúc cũ, đầu đội khăn mỏ quạ, miệng bỏm bẻm nhai trầu. Nhưng bà cụ không mặc váy mà chỉ mặc cái quần ống hơi bó và bỏ lửng ở trên mắt cá chân một đoạn. Chân thường đi đất, tay cầm gậy. Có lẽ vì đường làng ngày ấy còn lầy lội và bẩn thỉu nhiều, chứ bà cụ trông vẫn khỏe mạnh ngay ngắn. Những ngày làng tôi còn giữ lệ "Đăng cai lễ chùa", tuần rằm mồng một nào bà cũng chia phần cho các cháu - trong đó có tôi - mỗi đứa một khoanh chuối dày chừng nửa phân và nửa chéo oản to bằng độ hai đầu ngón tay. Giọng nói bà cũng hơi khàn khàn. Nhưng bà ít nói thường chỉ biểu lộ tình cảm bằng cử chỉ và cái nhìn chia sẻ thôi. Mãi đến năm 1952 Bà Tặng mới qua đời. Nhưng từ khi các bà mất chúng tôi cũng chưa một lần được "ăn giỗ" các bà. Trong chi họ cũng không thấy khi nào nhắc nhở đến việc cúng giỗ các bà cả. Cứ như là bỏ khoán cho con cháu các bà thôi. Tôi cũng nghe nói ngày trước các đám xá cúng giỗ ở "nhà tôi" thường được tổ chức rất linh đình trang trọng. Nhưng đến thế hệ bố tôi thì thời thế biến loạn, hết lo chống giặc nọ, lại đến lo chống giặc kia, hết lo đánh giặc ngoại xâm, lại lo đánh kẻ thù giai cấp, đời người cứ lăn lên lộn xuống như xóc ốc, không mấy lúc được an nhiên. Mục đích thì cũng định giải phóng quốc gia, giải phóng con người nhưng thực tế thì con người cứ phải gánh chịu hết hy sinh nọ đến hy sinh kia, phải chấp nhận một cuộc sống cứ ngày càng co thắt hơn và chật chội thêm. Mọi nhu cầu của con người đều bị cắt xén đến mức tối thiểu. Người sống đã thế thì người chết còn lo sao cho chu tất được. Những ngày giỗ thường chỉ làm "giỗ dúi". Còn chạp thì coi như không có. Ngày thanh minh cũng không thấy dở dói ăn uống, lễ bái gì. Chỉ thấy mỗi hộ cắt cử một người, đem theo một cái cuốc vào nhà bác trưởng để đi tảo mộ. Bác trưởng cầm một nắm hương, dẫn đoàn quân vác cuốc theo sau, đi hết đống này sang đống khác. Đến đâu có mộ người nhà thì bác dừng lại chỉ dẫn. Một người đánh một vầng cỏ úp ngược lên đỉnh mộ. Bác trưởng thắp một nén hương cắm lên đỉnh vầng cỏ. Ngôi mộ nào rậm rạp thì phát dãy cho quang quẻ. Ngôi mộ nào sạt lở thì đắp bồi vào. Ngôi mộ nào quá bé cũng đắp to thêm cho dễ nhận. Nhưng cũng không làm được đều đặn hàng năm. Khi các cụ già yếu, không có người dẫn đi thì cũng bỏ. Ngày ấy, toàn là mộ đất cả. Ngôi nào cũng tròn tròn như một nấm cỏ xanh trông cứ sàn sàn giống nhau nên rất dễ nhầm lẫn. Người thời ấy còn nghèo, nhưng lại sợ làm giầu. Vì giầu bị coi là bóc lột, giầu đồng nghĩa với tội ác. Ngay từ thời tôi còn rất bé, tôi đã thấy người làng tôi truyền nhau một câu ca dao: Ai ơi chớ vội làm giầuMãi đến những năm "Đổi mới", kể ra so với những nước phát triển thì cũng chưa là gì, nhưng cứ tự so với mình những năm trước đó thì cũng có phần đã "dễ thở" hơn, lớp người trẻ làng tôi mới rục rịch làm giầu. Đầu tiên là phong trào "ngói hóa". Cũng toàn là vắt mồ hôi mình ra trộn với đất mà dựng xây nên. Có bao nhiêu gò đống, nhất là những gò đống gần làng, họ đào cho bằng nhẵn, để lấy đất sét nung gạch. Có bao nhiêu cầu quán, bia đá họ cậy cho bằng sạch để nung vôi xây tường. Nhà gạch lợp ngói mọc lên san sát. Những ngôi nhà tre mái rạ cổ truyền vĩnh viễn đi vào quên lãng. Nhưng dương thịnh thì âm suy. Không biết bao nhiêu ngôi mộ-nơi yên nghỉ của những lớp người làng thưở trước-bị khai quật. Cũng toàn là những ngôi mộ mà con cháu xa đời bỏ quên trở thành mộ vô chủ. Cũng đa phần chỉ còn thấy tiểu sành, nồi hông với đất không. Những ngôi mộ như thế lập tức bị thanh lý. Họ đem đổ xuống sông, xuống ao, thậm chí còn đổ xuống để độn đường. Chỉ có những ngôi mộ nào còn có xương thì họ mới chôn tạm ra chỗ khác, khấn vái xin tha thứ và phù hộ cho họ "ăn nên làm ra"... Ngay đến "Lăng Cụ Hậu" xây đá đẹp thế mà họ cũng chặt đứt ra, chắp vá nham nhở, đưa thêm mộ con cháu vào, thành một khu mộ địa rất lộn xộn. Đống Mả Bà, đống Mả Sác...rộng mênh mông, xưa kia vẫn là bãi thả trâu, mộ san sát như bát úp, vậy mà nay thành đất bằng, thành ao, thành làng xóm dân cư đông đúc. Mới đầu người làng tôi còn làm giầu bằng cách làm thêm vụ đông: trồng hành, tỏi xuất khẩu. Nhưng xem ra vất vả mà thu nhập cũng kém xa so với việc đem bán mồ hôi ở xứ người. Thế là người làng tôi lại đua nhau đi lao động xuất khẩu. Người sang Nga, sang Đức; người sang Nhật, sang Hàn...Cứ đi bán mồ hôi như thế vài năm là cũng có "đôi trăm" . Khi về đã thành người có dấn có vốn. Cũng có người "tái đầu tư" cho con em đi tiếp. Có người ra phố mở mang kinh doanh, nhưng cũng có người chỉ đầu tư vào một "căn nhà hiện đại"...Bộ mặt làng tôi bây giờ đã hoàn toàn khác trước. Nhà tranh không còn, tre trở thành vô ích. Những lũy tre làng bị đốn trụi, thay thế bằng các loại cây ăn quả mà phổ biến nhất là nhãn, là vải... Cùng với việc làm giầu, người làng tôi cũng rục rịch vận động nhau khôi phục cái lệ tục cưới xin, cúng giỗ đã bị mai một và bỏ quên hàng mấy chục năm. Riêng chi họ nhà tôi, vào khoảng năm 1990, ông Đỗ Đình Tuấn(tên cha mẹ đặt ở nhà là Đỗ Đình Vĩnh) con trai trưởng cụ Lý Khang về nghỉ hưu. Với tư cách là một chi trưởng trong dòng họ, ông bắt đầu vận động trong chi khôi phục việc giỗ ông nội tôi hàng năm, mà mọi người cứ quen gọi là "giỗ họ".Tôi ở xa, không rõ là các vị ấy họp bàn như thế nào, nhưng được thông báo là chi nhà đã thành lập "Hội đồng gia tộc chi 2" để lo việc "giỗ họ". Hội đồng gồm bốn ông "nhánh trưởng" đang ở làng, hai bà cô và một bà thím còn tương đối khỏe mạnh và tỉnh táo. Cụ thể là: ông Tuấn, ông Thi, ông Tân, ông Huy, bà Đăng, bà Hồi, bà Lưu. Từ đó hàng năm cứ đến rằm tháng mười là "Hội đồng" lại họp bàn bạc thống nhất mức đóng góp, phân công ban tài chính, ban hậu cần...Đến ngày giỗ thì cứ theo số lượng người đóng góp mà làm cỗ. Nhộn nhịp và đông đảo hơn cả vẫn là bộ phận hậu cần. Chừng nửa buổi thì các ông "nhánh trưởng" đem lễ ra đồng tạ mộ, tiện thể làm luôn cả công việc của ngày thanh minh. Xong lễ ở ngoài đồng mới về làm lễ ở từ đường. Ông chi trưởng đứng nghiêm cẩn trước bàn thờ đọc lời khấn. Hai ông " nhánh trưởng" đứng chuốc rượu ở hai bên bàn thờ đặt hai mâm cỗ. Các bà, các mợ rải chiếu ngồi sau chắp tay để sẵn dưới cằm, thỉnh thoảng lại vái phụ họa theo ông chi trưởng. Những người còn lại đứng vây quanh trước bàn thờ. Làm lễ xong, trong khi chờ đợi các cụ về thụ lễ, thì con cháu cũng tranh thủ "họp họ". Hội đồng gia tộc báo cáo, đề xuất. Mọi người góp ý bổ sung. Những vấn đề cứ dần dần nảy sinh. Đầu tiên là lập "Quỹ tình nghĩa" để thăm hỏi ốm đau và phúng viếng đám héo. Đám héo thì đương nhiên rồi. Nhưng còn khoản thăm hỏi người sống ốm đau thì quả là nan giải. Hội đồng gia tộc không tai mắt nào để theo dõi cho khắp, cũng không lấy hơi sức đâu mà đi cho đều. Thế là lại thắc mắc tị nạnh nhau, kính chẳng bõ phiền. Sau phải bỏ. Lại đến việc lập "Quỹ khuyến học". Cũng đã thu được chừng nửa số hộ. Số còn lại ỳ ra không chịu nộp. Trong hội nghị họ chẳng nói gì, chỉ sờ cằm cười tủm. Nhưng ra ngoài thì họ bảo: "Con nhà tôi nó học dốt như bò ấy, có khuyến nó cũng chẳng học". Thế là cũng không thành. Cũng có ý kiến đề xuất lập "Quỹ hương hỏa" để thay thế cho chế độ "tự điền". Nhưng mọi người đều im thin thít cả, không thấy ai hưởng ứng. Nhưng mười năm cuối cùng của thế kỷ XX, "Hội đồng gia tộc chi 2" cũng làm được mấy công việc đáng kể. Năm 1995, chủ trương các cháu đứng ra xây mộ cho ông bà. Việc này làm được. Năm 2000 chủ trương soạn thảo lại "Đỗ tộc gia phả", vừa chuyển ngữ, vừa bổ sung thêm. Việc này cũng hoàn thành. Cũng có người đề xuất việc tổ chức cúng giỗ luân phiên giữa giỗ ông với giỗ bà. Nhưng lúc đó nhiều người còn phân vân về việc ông có nhiều bà quá. Nếu chỉ giỗ "bà già" mà không giỗ các "bà trẻ" thì không phải. Mà giỗ luân phiên hết ông rồi lần lượt đến các bà thì ngày "giỗ họ" sẽ chạy lung tung ra suốt quanh năm. Anh em con cháu bây giờ cũng không ở cùng làng như trước, mà gần cũng khắp huyện, khắp tỉnh và các tỉnh ung quanh. Việc triệu tập nhau lại đâu có dễ dàng gì. Thôi thì cứ làm gộp cả vào ngày giỗ ông, mời đủ các bà về cùng dự, vừa đầm ấm gia đình, vừa thuận tiện cho con cháu. Cái lý của thời chúng tôi là như thế. Nhưng cuối năm 2008, ông Đỗ Đình Thi, nhánh trưởng nhánh 2 từ trần. Ông Thi cũng ốm đau quặt quẹo từ lâu rồi. Ông ấy mắc một căn bệnh về phổi. Có thời kỳ đã bị nghi là lao phổi, nhưng không phải. Khi bệnh phát, ông ấy có cảm giác nóng rát ở phía sau ngực và khó thở. Vốn làm việc trong ngành y, lại sợ chết nên rất chịu khó đi nằm viện. Hai ông bà cứ khăn gói đưa nhau đi bệnh viện luôn luôn. Nhè nhẹ thì nằm ở huyện. Nặng hơn thì lên tỉnh. Cũng có kỳ phải lên tận Hà Nội. Có khi vừa xuất viện về được vài hôm thì lại đi nhập viện. Ông đi nằm viện thì bà phải đi theo để chăm ông. Hai ông bà gần như dân chuyên nghiệp đi nằm viện. Tuy cũng bằng tuổi ông, nhưng bà còn khỏe mạnh. Càng đi bệnh viện chăm ông thì bà càng béo trắng ra và lùn tịt lại. Còn ông, bệnh đã thành mãn tính và càng ngày càng nặng. Về sau ông cũng chán, không lên tuyến trên nữa. Chỉ tự điều trị ở nhà và cùng lắm thì vào huyện nằm thôi. Hôm rằm tháng tám năm Mậu Tý (14/9/2008), tôi đang ăn trưa thì thấy cả vợ và con cái ông ấy vào thăm tôi. Mời ăn, mời uống gì cũng không được. Bà ấy giải thích với tôi: Vừa ấy ăn uống ở ngoài kia cả rồi. Tự nhiên sáng nay ông ấy bắt cả nhà phải đưa ông ấy vào thăm chùa Côn Sơn rồi vào đây thăm các chú. Tự nhiên tôi cũng nghĩ "Chắc là bác ấy dở đời rồi đây". Nghĩ vậy thôi chứ không dám nói ra miệng. Bác ấy nói với tôi: " Lần nào các chú về nhà cũng vào thăm anh, mà anh thì chẳng mấy khi đến thăm các chú được. Hôm nay anh cảm thấy người khoe khỏe nên bảo các cháu đưa đi thăm một số nơi, qua đây thăm chú, lát nữa ra chỗ chú Tu một lúc thì anh về". Gần ba tháng sau, tôi nhận được điện ở nhà báo: "Bác Thi hôm qua lại vào nằm viện đấy, bác đã ra thăm chưa?". Chiều hôm sau tôi ra thăm, thấy bác ấy đã ngồi dậy được.. Bác ấy bảo: " Tôi tỉnh rồi, chắc không làm sao đâu". Đứa con gái lấy chống ở Nam Hà cũng vừa về. Thấy bố yếu nó cứ vừa sụt sịt khóc vừa hỏi chuyện bố. Bác ấy bảo con gái: Bố mệt lắm, hỏi it thôi, để bố nghỉ". Tôi ngôi chơi với bác một lúc thì xin phép ra về. Hẹn đến tối sẽ đưa mọi người ra thăm. Nhưng chưa kịp ra thì đã nhận được điện ở nhà báo lên. "Bác Thi mất lúc7giờ, đã đưa về nhà rồi. Hôm đó là ngày 12 tháng 11 năm Mậu Tý(8/12/2008). Đến cuối năm 2009, ông Đỗ Đình Tuấn, nhánh trưởng nhánh 1, cũng đồng thời là chi trưởng chi 2, tai biến. Một chàng rể lai xe máy cho ông sang Hải Dương ăn cưới cháu. Ngang đường thì tự nhiên ông xỉu. Anh chàng rể cũng sáng ý, nhanh tay. Thấy xe láng đi bất thường, nó nghĩ ngay là chắc bố làm sao, bèn quờ tay giữ bố và từ từ phanh xe lại. Tiện có di động, nó gọi cho anh vợ ngoài Hải Dương thuê ngay xe về đưa ông đi cấp cứu. Ông qua cơn nguy biến nhưng một bên chân tay bị liệt. Thế là phải để ông ở nhà người con trai bên Hải Dương thuê bác sĩ về nhà để "phục hồi chức năng". Vài tháng sau ông cũng tập tễnh chống nạng đi lại được vài bước. Hy vọng là có thể phục hồi nên ông đòi về quê. Nhưng cũng không dám về ngôi nhà hương hỏa tổ tiên để lại dưới làng ở nữa. Vì nhà vắng, hè cao, lại không tiện đường giao thông. Sẵn có ngôi nhà ông xây mấy năm trước trên Bình Giang cho con trai trưởng, nhưng đang bỏ không, nên ông về đó ở. Ai đến thăm, ông cũng vừa nói vừa khóc nức nở, nước mắt nước mũi cứ dàn dụa ngoen ngoét cả ra. Ít lâu sau ông đã chống nạng tự đi được ra cửa ngồi chơi, thì đùng một cái ông lại bị tái phát. Lại phải đưa ông đi. Rồi cũng lại phải đưa ông về. Nhưng bây giờ thì tình trạng của ông trầm trọng hơn nhiều. Hôm 16/10/2010(9/8/Canh Dần), tôi đến thăm ông ở Hải Dương, được bà ấy cho biết: mấy hôm nay không ngủ được nhưng từ sáng đến giờ lại thấy ngủ li bì gọi cũng không được. Ông nằm ngủ trên giường, đắp kín chăn đến cổ, chỉ hở có khuôn mặt, trông đã thấy gầy hơn kỳ trước. Hôm 26/1/2011(24/1/Tân Mão), tôi lại đến thăm ông ở Bình giang. Tôi gõ cửa, chờ một lúc thì thấy bà ấy ra mở cửa. Thấy tôi, bà ấy quay vào gọi: " này ông Tuấn ơi ! Ông Tuân ông ấy về chơi đây này". Nhưng không thấy ông ấy trả lời. Tôi vào vẫn thấy ông ấy nằm ngủ trên giường. Tay phải đã bị trói lại, bởi nghe đâu gần đây, ông ấy đâm ra bực bội, hay dùng tay phải, chân phải (bên không bị liệt) để hất tung chăn chiếu và bà ấy vào gần thì nhiều khi lại đấm đá rất đau. Tôi ngồi bên cạnh giường. Bà ấy ngồi phía đầu giường, vừa lay đầu chồng vừa hỏi: "Ông có biết ông Tuân là con ai không?". Ông ấy lí nhí một câu gì đó tôi nghe không rõ. Nhưng bà ấy phiên dịch là "Ông Đăng!-Thế là cũng biết đấy chú ạ". Rồi bà ấy lại hỏi: " Thế ông có biết hôm nay là ngày gì không?". Ông ấy lại trả lời cũng lí nhí tôi nghe không rõ. Cái tai tôi bây giờ tuy chưa điếc đặc nhưng cũng nghễnh ngãng nhiều rồi. Cứ phải nói to to thì mới nghe được. Còn nói bé thì chịu. Vì thế mà bà ấy lại phải phiên dịch cho tôi nghe cái tiếng mà ông ấy vừa lí nhí: "Giỗ ông Đăng". Đúng rôi. Thế là ông ấy vẫn tỉnh. Bà ấy lại lay đầu ông ấy bảo: "Nói chuyện với ông Tuân một lúc nhé!" Nhưng không thấy ông ấy có bất cứ một phản ứng gì. Bà ấy nói với tôi: "Cũng cứ lúc tỉnh, lúc mê, lúc biết , lúc không như thế đấy chú ạ. Có hỏi thì mới nói, chứ không chủ động tự nhiên mà nói đâu". Theo những người có kinh nghiệm về căn bệnh này thì ông ấy bị liên tiếp hai lần gần nhau như thế thì khả năng phục hồi là không thể. Vì thế mà ngày "giỗ họ" chi tôi năm nay không mở mang được, chỉ làm gói gọn thôi. Chi tôi có sáu nhánh, mỗi nhánh cử hai người gồm bố và con trưởng. Ông Thi đã mất. Ông Tuấn đang nằm liệt. Tôi hôm ấy cũng đang viêm thanh quản nói không ra tiếng nên không về được. Vậy là chỉ có ba ông "nhánh trưởng" còn lại với sáu người con trưởng. Hôm ấy làm có hai mâm, cũng ở trên Bình Giang, chứ không về từ đường làng cũ được. Tuy đã có ý định từ lâu, nhưng hôm ấy mới chính thức bàn giao việc "giỗ họ" cho thế hệ thứ tám. Chúng tôi chỉ còn làm lớp người cố vân. Các cháu bàn bạc và quyết định từ năm nay, ngoài giỗ ông ra, thì mỗi năm sẽ lần lượt tổ chức thêm một lần giỗ bà nữa cho tình anh em thêm gắn bó. Cái ý ấy bây giờ lại thành ra hợp lý. Vì ông chi trưởng đang nằm liệt. Mà con giai ông chi trưởng thì lại ở mãi bên thành phố Hải Dương. Trong khi đó thì con cháu "Bà Tặng", con cháu "Bà Ba Sen" lại đang ở quê nhà. Làm san ra như thế lại thành ra thuận lợi và đẹp đẽ mọi đường. Ngày hôm nay (mồng 3 tháng 2 âm lịch) mới là ngày chính giỗ "Bà Tặng" lần thư 59. Nhưng các cháu đã tổ chức vào ngày chủ nhật từ hôm qua rồi. Tôi bận dự đại hội Người Cao Tuổi không về được. Chỉ cử con dâu trưởng và con gái về dự. Tối về, tôi mới điện cho chú Huy: "Thế nào, kết quả tốt không?". Chú Huy trả lời: "Đông vui lắm bác ạ. Làm tất cả 11 mâm. Các cháu nó cũng vừa mới giải tán xong". |
11. Khúc vĩ thanh |
Năm
1956, dân công cả tỉnh Hải Dương được điều về Chí Linh
để đào một con sông kéo dài suốt từ cống Phao Tân chạy
dọc theo dãy bờ hào nhà Mạc, qua Đuôi Nheo ngọn Sông Đào,
rồi tiếp tục qua các cánh đồng Kỳ, Thượng, Dọc, Trại
chua, Mật Sơn, Thanh chung, Ninh Chấp...vòng xuống tơi Cống
Vạn. Công trình đó được mang tên là công trình thủy lợi
Trung Thủy Nông. Nhưng dân gian thì gọi nó là sông Trung Thủy
Nông. Về mùa cạn sông Trung Thủy Nông sẽ lấy nước từ
sông Lục Đầu qua cống Phao Tân vào tưới cho đồng ruộng
Chí Linh. Về mùa mưa sông Trung Thủy Nông lại đón nước
rừng về dẫn xuống cống Vạn rồi tháo ra hạ lưu sông Kinh
Thày mà ra biển. Từ đó con Sông Đào bị cắt nguồn và làng
tôi cũng không còn úng ngập nữa. Đồng trên, đồng dưới
làng tôi đều năm hai vụ lúa chiêm mùa. Mấy năm đầu khi
hệ thống mương nổi và trạm bơm thủy lợi chưa được
xây dựng đồng bộ thì Sông Đào còn có ít nhiều tác dụng
như một con sông nhánh của sông Trung Thủy Nông để dẫn
thủy nhập điền. Nhưng từ khi Trạm Bơm Kỳ Đặc được
xây dựng và một con mương nổi cỡ bự chạy dọc suốt bờ
đông con Sông Đào từ Đuôi Nheo xuống trạm bơm thì Sông
Đào trở thành gần như con sông chết. Người ta cắt nó ra
thành nhiều khúc để cho dân đấu thầu. Nhà trồng sen, nhà
thả cá,... lại có đoạn chỉ thấy có bèo tây, rất linh
tinh lộn xộn. Nhất là đoạn gần làng, nhiều nhà còn bắc
"cầu khỉ" sang bờ đông để tận dụng bờ mương nổi tròng
nhãn, trồng chuối. Tận dụng không gian lòng sông để bắc
giàn bầu, giàn bí. Ven bờ thì tận dụng làm nơi đổ rác:
túi ni lông, bao xác rắn, rác tổng hợp... bập bềnh trôi
nổi trông rất là phản cảm. Con Sông Đào thơ mộng tắm
táp tuổi thơ tôi đã thật sự không còn.
Năm 1995 làng tôi xây lại đền làng. Nhưng nền đền cũ thì huyện đã trưng dụng và xây một cơ sở của Phòng Thủy lợi từ lâu rồi. Hai cây đa ông Trương Tự trồng thì cây đa trơn cũng đã chết. Làng tôi đành ké cái nền đền mới ở chỗ gốc cây đa ấy. Đền làm nhỏ thôi. Cũng gọi là có một gian cung để thờ bà TRẦN TRIỀU CÔNG CHÚA. Nhưng bà là ai và hành trạng của bà thế nào thì làng tôi không ai biết cả. Ban kiến thiết cử cụ Hướng, cụ Tường vào nhờ tôi làm hộ công việc này. Tôi cũng thấy rất bí nhưng chẳng lẽ lại không làm. Dù sao thì tôi cũng là người được học hành nhiều nhất làng và có học vị cao nhất làng. Làng không nhờ tôi thì còn nhờ ai? Mà ở cương vị ấy tôi cũng từ chối làm sao được? Nhưng thực tình tôi cũng chẳng biết gì về sự tích bà Trần triều công chúa cả. Tôi hỏi lại hai vị xem trong làng còn có ai nhớ được một điều gì về bà ấy không. Hai vị đều trả lời " Chỉ biết bà ấy tên là TRINH, không chồng, không con và giỗ vào ngày mồng sáu tháng Giêng". Từ chi tiết này tôi đoán định "Trinh" không phải là tên thật. "Trinh" chỉ là chữ chỉ người con gái chưa lấy chồng, chưa làm vợ mà thôi. Tôi đi tham khảo thêm một số cụ biết chữ nho già cả ở quanh vùng thì được các cụ cho biết thêm một gợi ý "Ở thời Trần thực hiện chế độ hôn nhân đồng tộc nên nhiều công chúa không lấy được chồng, họ thường xin về các miền quê chiêu dân lập ấp". Tôi nghĩ đây là một gợi ý tốt. Rất có thể bà Trần triều công chúa thờ ở đền làng tôi là một trong những bà công chúa như thế. Nhưng muốn xác định cụ thể thì vẫn phải có bằng cứ. Tôi về hỏi lại các cụ xem làng có còn giữ được vật chứng gì ở ngôi đền cũ hay không. Các cụ hội ý và cuối cùng cũng nhớ ra là có một số vật chứng: Một bức phù điêu vẽ bà Trần triều công chúa gửi trên làng Thủy bây giờ xin lại. Một lư hương bằng đá xanh mà người làng Kỳ lấy về thờ trong nghè Kỳ cũng vẫn còn. Hai cột trụ đá vuông chôn ở cầu giếng trông vẫn thấy có nhiều chữ. Một tấm bia đá nữa bắc ở cầu ao nhà ông Trình cũng có thể khênh lên mà nghiên cứu được. Thế là tôi bắt đầu làm việc với các vật chứng. Bức phù điêu sơn son thếp vàng, nhưng sơn đã xỉn mầu và thếp vàng đã ngả bạc. Giữa bức phù điêu có hình một "vua bà" ngồi xếp bằng tròn rất phương phi và mô phạm. Hai bên tả hữu có bốn thị nữ đứng hầu quạt và hầu nước. Chắc cũng chỉ là hình ảnh tượng trưng để thờ chứ không phải là chân dung. Chiếc bát hương đá thì khá to, trông tựa như một chiếc ly vuông : đế, chân ly rồi đến thân ly. Phần miệng thân ly hơi loe ra rộng hơn so với phần đáy. Đây chính là phần để cắm hương. Mặt trước có bốn chữ Hán khắc nổi 古袾下社(Cổ Châu Hạ xã). Hai thứ đồ thờ này coi như không khai thác được gì. Tôi đi tìm trong hai tấm bia.Thời đó tôi cũng chưa có và chưa biết sử dụng hanoikey nên cũng chưa tự tra cứu được. Tôi phải sao chép lại, rồi đi hỏi các vị biết chữ Nho. Để cẩn thận tôi hỏi những hai vị: cụ Thoại người Nam Gián Đông và cụ Nguyễn Văn Lập người thôn Tiền Định. Có bản phiên âm rồi mà tôi đọc thấy trúc tra trúc trắc nghe cứ như búa đấm vào đầu, rất khó dịch cho xuôi và thoát nghĩa. Nhưng cứ rút lấy cái tinh thần thì tôi cũng hiểu được nội dung tấm bia khênh ở cầu ao nhà ông Trình lên ghi lại một hương ước của làng về bốn mẫu tự điền của đền làng. Bốn mẫu tự điền này nằm ở các xứ Đồng Phương, Mả Bà và Đống Lôi. Luật lệ thì đã có từ trước đó, ở tấm bia này các hương lão chỉ cam kết sẽ "chiểu y lệ cũ" mà thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ . Nếu ai sinh tình bội bạc cố ý không nộp lợn gạo cho làng để tế lễ hàng năm thì các quan bản thôn cùng với bản tộc và quan viên trong làng sẽ truy cứu, đòi lại ruộng cho người khác cày cấy...Phần cuối bia có ghi rõ năm tháng ngày lập bia và tên những hương lão tham gia ký vào hương ước cùng với tên soạn giả. Cụ thể như sau: 景興四十五年三月一十日立碑Tính ra thì tấm bia ấy lập vào ngày mồng 10 tháng ba năm Giáp Thìn (1784) thời vua Lê Cảnh Hưng năm thứ 45. Căn cứ vào tấm bia này có thể biết vào thời Lê làng Cổ Châu đã chia hai thôn thượng hạ nhưng chỉ là một đơn vị hành chính và chung một trưởng thôn. Đền làng vẫn còn chung của cả hai thôn. Hai cột trụ đá chôn ở hai bên cầu giếng làng thì hai mặt tiền khắc hai hàng chữ to nổi. Đó là một đôi câu đối xưng tụng công đức và uy linh của bà Trần triều công chúa 立巿开津存舊跡Nghĩa là: lập chợ, mở bến đò vẫn còn dấu tích cũ, trời nắng hạn dân làm lễ đảo vũ cầu mưa vẫn thấy có linh ứng. Các mặt còn lại của cột đá ghi họ tên, số lượng tiền và cột gỗ của những người cung tiến trùng tu ngôi đền. Thời gian làm cột đá là vào ngày 22 tháng 11 năm Mậu Tuất, Minh Mạng thứ 19 (1838). Nhưng ngoài ra cũng không biết gì thêm về nhân vật được thờ ở ngôi đền. Trong khu đình làng cũng vậy. Dân đã ở kín cả bốn chung quanh. Chỉ còn lại cái nền đình cũ. Làng xây lại đình mới trên cái nền cũ ấy. Cũng không ai nhớ được sự tích các Thành hoàng. Mọi người chỉ mang máng nhớ rằng đình làng thờ hai vị Thành hoàng thôi. Có một vị đâu có cái tên là Nghị, hai vị đi đánh giặc về và hình như hóa ở đây. Làng không giữ được một sắc phong nào nên cũng không rõ danh tính của các vị Thành hoàng làng là chi cả. Làng tôi vẫn ở vào tình trạng mồ côi Thành hoàng. Năm 2009 thì các xà gỗ của đền làng và đình làng đều mục. Làng tôi phải sửa lại thay bằng xà bê tông cốt thép. Nhân dịp này tôi có soạn đôi câu đối: 弍位城潢庇民护囻Làng thuê thợ cho đắp vẽ đôi câu đối ấy lên hai cột cổng đình. Mãi đến năm ngoái (2010) tình cờ, có một người làng Dâu (thôn Cổ Châu thượng cũ) lên Viện thông tin khoa học xã hội tìm lại thần tích Thành hoàng làng mình. Họ hỏi tên làng cổ là gì, ông ta đáp "Làng Cổ Châu". Họ tìm cho một văn bản viết bằng chữ quốc ngữ do hương lý của làng gửi lên năm 1938. Nhưng văn bản ấy lại không phải của làng Cổ Châu Thượng mà lại là của làng tôi: Làng Cổ Châu Hạ. Ông ta vẫn xin về rồi mang xuống tận làng biếu lại làng tôi. Làng tôi lại đưa văn bản đó vào cho tôi tìm hiểu. Tôi chỉ đánh lại bằng vi tính cho rõ ràng, làm thêm mấy chú thích (cố nhiên là theo cách hiểu của tôi chưa chắc đã chính xác) để người làng đọc thì hiểu rõ hơn. Nhưng tôi vẫn giữ nguyên cách viết của các cụ hương lão ngày ấy, không sửa chữa gì, kể cả lỗi chính tả. Coi như là "sao y bản chính":
VIỆN THÔNG TIN KHOA HỌC XÃ HỘI
THẦN TÍCH – THẦN SẮC Thôn :...................................................... Làng : ......Cổ Trâu Hạ................................. Xã :......................................................... Tổng :......Cổ Trâu...................................... Huyện :...... Chí Linh..................................
Tỉnh :........Hải Dương..................................
HÀ NỘI - 1995 Cổ Trâu Hạ b 12 amil 1938
Monsum b Tri Huyện
Chúng tôi là Hương Lý của Cổ Trâu Hạ xin khai 10 vấn đề về việc Hương Tục như sau này: I/ Làng chúng tôi là làng Cổ Châu Hạ 古鄒下 tên nôm gọi là làng Giêng tổng Cổ Châu 古鄒 huyện Chí Linh 至灵 tỉnh Hải Dương II/ A-Làng chúng tôi thờ
3 vị Thần Thành Hoàng :
III / Vị đệ nhất,
đệ nhị thì thờ ở đình, vị đệ tam thì thờ ở đền
IV / Trong năm có
4 lệ tế lễ:
V / A-Đồ lễ cúng tế
4 lệ kể trên:
VI / Những người dự tế tự toàn là người có chân trong Cựu chức dịch, tùy theo thứ vị cao thấp mà cắt cử vào công việc hơn kém, như người thứ vị cao nhất thì vào Mạnh Bái, thứ nhì đến Thông Xướng, thứ nữa đến Tiến Tước, Thượng Hương vân vân...Tả văn , độc chúc thì cắt Lý Trưởng đương thứ. VII / Trước ngày lễ và trong khi tế lễ thì những người dự tế kiêng ăn thịt chó, phải tắm gội sạch sẽ và kiêng kỵ những người có tang chở. VIII / Lúc tế lễ thì những người dự tế mặc áo tế, đội mũ tế IX / A-dân chúng tôi chỉ
phải kiêng gọi và nói chữ "chinh" phải nói là chữ
"chiêng" mà thôi vì chữ ấy là tên hèm vị Trần Triều công
chúa
X / Trong mấy năm gần
đây:
Đóng dấu tròn
Chú Thích: (1).
Khải Định năm thứ 9: năm 1924 ( Khải Định 40 tuổi
có tổ chức Tứ tuần đại khánh tức lễ mừng thọ
40 tuổi
Vậy là bà Trần triều công chúa làng tôi lại không phải con vua. Hai chị em Gia Chinh và Gia Thạch chỉ là những người phụ nữ lao động, mở lò gốm lập ra khu dân cư "làng Gốm", dạy nghề trồng dâu nuôi tằm lập ra khu dân cư "làng Dâu", rồi lập ra "chợ Bến" (một tên khác là "chợ Cống"), mở ra bến đò Cống cho thông thương trong vùng thuận lợi. Thực chất họ chính là những doanh nhân thời cổ, những người giữ vai trò chính trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội ở vùng tôi. Nhưng hai vị Thành hoàng thờ ở đình làng tôi là ai vậy thì vẫn chưa trả lời được. Vâng theo lời khuyên của một câu ca dao hiện đại: " Dân ta phải biết sử ta / Những gì chưa biết thì tra gu gờ (google)". Tôi tra google thì có đến ba nguồn tài liệu khác nhau: Một ông Thạch Sùng là tướng thời Tây Tấn bên Trung Quốc. Phiên bản chuyện này sang Việt Nam biến thành chuyện cổ tích: "Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho". Nhưng làng tôi thì thờ cái ông này làm gì? Cái ấn tượng bền vững nhất trong ký ức của dân làng tôi là "một ông có tên là Nghị, hai vị đi đánh giặc về và hình như hóa ở đây". Được gợi ý từ suy nghĩ này tôi đi tra Vũ Nghị. Quả là có một người học trò rất thông minh từ thời Hùng Vương tên là Vũ Nghị thật. Đây là đoạn tôi sao chép được: "Người con giai là Vũ Nghị: Con ông Vũ Huy Hiển, bà Hoàng Thị Việt. Năm 12 tuổi cha mẹ cho đi học ở thôn Trung xã Vĩnh Lại tên nôm là làng Giải Thượng huyện Cẩm Giàng - Hải Dương. Thời Hùng Hy Vương có giặc Cao Man, giặc Ân ông đã cùng với người cậu là Hoàng Công Độ, lạc tướng ở kinh thành Văn Lang đi đánh giặc lập nhiều chiến công. Ông Vũ Nghị đã hoá theo Thánh Gióng ở núi Sóc Sơn". Có lẽ đây mới là các vị thành hoàng mà làng tôi thờ đây. Đối chiếu với những làng lân cận trong vùng như làng Chí Linh, làng Nam Gián đều thấy có thờ hai, ba vị Thành hoàng như làng tôi vậy. Mà sự tích các vị Thành hoàng ấy đều là những nhân vật có liên quan đến thời Hùng Vương. Làng tôi cũng khó mà không theo cái định hướng chung ấy. Dù sao thì bây giờ làng tôi cũng đã tìm lại được Thành hoàng. Cho dù mới chỉ có một cái tên. Nhưng biết tên rồi, người làng tôi có thể gọi được các ngài về. Thần Vũ Nghị ơi! Thần hãy về mà phù hộ nâng cao dân trí cho làng tôi. Bà Trần triều công chúa ơi! Bà hãy về mà phù hộ cho dân làng tôi có thêm nhiều doanh nhân. Hỡi vong linh của lớp người sống trong thời biến loạn! Hãy trở về mà chia vui với dân làng, con cháu. Nhưng vẫn còn buồn lắm bà con ơi! Người làng tôi bây giờ không ai muốn làm doanh nhân cả. Cũng nhiều người có vốn, nhưng chỉ dùng vào việc xây nhà cao cửa rộng, sắm ti vi, xe máy đắt tiền...Chưa kể còn đỏ đen, hút sách lao vào tệ nạn. Những người đứng đắn họ cũng chỉ làm ăn cầm chừng, cốt sàng sê lấy cái đút mồm. Hỏi họ thì họ bảo: "Còn nhiều bức xúc lắm bác ơi, chưa thể làm ăn được. Bỏ vốn vào kinh doanh nhiều khi chẳng khác nào như vứt tiền đi. Bởi cứ hết tiền đút lót là hết luật. Chẳng còn ai bảo vệ cho mình!". Thì ra muốn làm ăn bây giờ vẫn tắc. Tắc ở đâu hỡi làng nước ơi ?
Viết xong lúc 7 giờ 54 phút ngày 26/5/2011
Đỗ Đình Tuân |
|