Chim
Việt Cành Nam [
Trở
Về ]
[ Trang chủ ]
[ Tác giả ]
|
|
Phúc: nguyên nghĩa là... con dơi? Tết Nguyên đán, dường như nhìn đâu cũng thấy chữ phúc được thể hiện theo lối tượng hình Hán tự 福: trên bàn thờ gia tiên, nơi mâm ngũ quả, trong tờ lịch treo tường hoặc cánh thiệp đầu xuân, v.v. Cùng một chữ phúc, song có lắm cách trình bày: nào kiểu chân, kiểu lệ, nào hành thư, thảo thư, v.v. Không ít trường hợp, thiên hạ thay chữ phúc bằng biểu tượng con dơi, khiến nhiều người thắc mắc: từ nguyên của phúc phải chăng chỉ giống vật nửa chim nửa chuột? Tra cứu Hán tự diễn biến ngũ bách lệ của giáo sư Lý Lạc Nghị, bản in tại Bắc Kinh năm 1996, sẽ thấy: nếu lần lại giáp cốt văn, chúng ta biết được rằng người xưa quan niệm mọi sự hồn nhiên, giản dị và thoải mái xiết bao! Chữ phúc gồm bộ thị đi liền ký tự phúc. Bộ thị vốn là hình vẽ cái bàn thờ. Ký tự phúc - mà người đời sau chiết thành nhất khẩu điền - vốn là hình vẽ một vò rượu. Nghĩa là sao? Cầu cho trong nhà được bình rượu luôn đầy. Thế là đầy đủ, dồi dào và hoàn bị. Ý nghĩa của chữ phúc thoạt kỳ thủy tương tự chữ phú 富, ngày nay được hiểu là giàu. Chữ phúc lần hồi được hiểu là "điều tốt lành" hoặc "việc may mắn" như Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh đã giải thích. Do đó, nhiều kết hợp từ có yếu tố phúc nhằm chỉ sự vui vẻ, no ấm, an lành: phúc đức, phúc ấm, phúc tinh, phúc hạnh, hạnh phúc, hồng phúc, diễm phúc, v.v. Lưu ý rằng trong từ Hán - Việt còn mấy chữ phúc đồng âm dị nghĩa: phúc 輹 có nghĩa thanh gỗ ngang dưới xe dùng nắt liền trục xe với thân bánh xe; phúc 輻 / 辐 có nghĩa nan hoa bánh xe; phúc 蝮 có nghĩa rắn độc (như phúc xà là rắn hổ mang); phúc 腹 có nghĩa là bụng (như tâm phúc, phúc mạc, v.v.); phúc 覆 /复 có nghĩa lật lại, xem xét lại kỹ càng (như phúc khảo, phúc hạch, v.v..); phúc 蝮 có nghĩa là chiều ngang, khổ, viền mép vải, bức (như nhất phúc hoạ là một bức tranh); và phúc có nghĩa là con dơi. Chữ phúc chỉ con dơi được viết khác: không phải bộ thị mà là bộ trùng (tức côn trùng, rắn rết, v.v.) đi kèm. Gọi cho đầy đủ theo tiếng Hán, con dơi là biên phúc 蝙蝠. Song, cả hai chữ phúc đều được người Hoa phát âm Bắc Kinh là phú. Do đó, họ lấy hình ảnh con dơi tượng trưng cho điều tốt lành, may mắn. Biểu tượng này được phổ biến tại nhiều quốc gia đồng văn - trong đó có Việt Nam. Khi chữ phúc lộn ngược Ngày Tết, có nhà dán hoặc treo chữ phúc Hán tự lộn ngược, nhất là nhà bà con dân tộc Hoa. Dĩ nhiên, không thể bảo họ mù chữ... Hán. Cũng chẳng phải họ sơ ý đâu. Thực chất, đây là một phong tục độc đáo và có nhiều cách giải thích khác nhau, ví như điển tích "thợ mộc Thái Sơn" chẳng hạn. Trên phương diện ngôn ngữ, đây lại là lối "chơi chữ" đặc sắc dựa theo tính chất đồng âm. Chữ phúc lộn ngược gọi là gì ? Phúc đảo. Tiếng Bắc Kinh đọc là phú dào, y hệt như... phúc đáo, nghĩa là "điều tốt, vận may đến". Đầu năm đầu tháng (hoặc làm lễ khai trương cửa hiệu, ăn mừng tân gia, v.v.), hỏi ai chẳng mong "bồng ông Phúc vào nhà" như vế đối Nguyễn Công Trứ từng nêu ? Mà có mấy ông Phúc tất cả ? Ai đấy bảo rằng có 3 ông tạo thành "bộ tam" Phúc - Lộc - Thọ. Song, dịp Tết, sao lại thấy nhiều nhà dán "xuân liên" trước cửa đề Ngũ Phúc lâm môn - tức năm ông Phúc ghé thăm? Khái niệm ngũ phúc được các từ điển giảng giải không thống nhất. Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh cắt nghĩa: "Năm thứ hạnh phúc: phú, quý, thọ, khang, ninh". Phú là giàu. Quý là sang. Thọ là sống lâu. Khang là mạnh khỏe. Ninh là bình an. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên cũng giải thích như thế. Nhưng Đại Nam quấc âm từ vị của Huình-Tịnh Paulus Của hoặc Tầm nguyên tự điển của Bửu Kế thì nêu khác: thọ (sống lâu), phú (giàu có), khang ninh (mạnh khoẻ bình an), du hảo đức (đức tốt lâu dài), khảo chung mệnh (chết già, chứ không phải chết non hoặc chết vì tai nạn). Đây lại là quan niệm dựa theo thiên "Hồng phạm" trong Kinh thư. Thật tình, bản tính con người vốn tham lam, cho nên khái niệm ngũ phúc có thể phát triển thành thập phúc, bách phúc, vạn phúc hoặc... hằng hà sa số phúc e vẫn chưa thoả mãn! Chẳng phải ngày Xuân, thiên hạ vẫn chúc nhau phúc đẳng hà sa (phúc nhiều tợ cát sông) đấy ư ? Phúc biến hoá thành phước Phúc và phước lại là đồng nghĩa dị âm. Chính âm là phúc. Biến âm thành phước. Vấn đề đặt ra: sự biến âm ấy diễn ra từ bao giờ? Vì sao? Đâu là giới hạn? Mọi người đều biết rằng hiện tượng "viết chệch, đọc lệch" từng xuất hiện trong lịch sử do kiêng húy. Chữ phúc bị kiêng, thoạt tiên từ thời Tây Sơn. Thoái thực ký văn của Trương Quốc Dụng (1797 - 1864) có đoạn: "Xã tôi xưa gọi là Long Phúc, vì Nguyễn Huệ có tên giả là Phúc, nên đổi gọi là Long Phú". Vậy là Phúc biến thành Phú, tức thay hẳn cả chữ lẫn nghĩa. Còn Phúc biến thành Phước thì giữ nguyên chữ nghĩa, chỉ đổi âm, thực sự phổ biến kể từ năm Quý Mùi 1883 - thời điểm công tử Ưng Đăng lên ngôi vua, chọn niên hiệu Kiến Phúc. Dù đây không phải là trọng húy được triều đình chuẩn định ban bố, song từ hoàng thân quốc thích đến quan quân lẫn thứ dân thảy đều gọi kiêng. Dòng họ Nguyễn Phúc được đọc trại ra Nguyễn Phước. Theo đó, Phúc - Lộc - Thọ biến thành Phước - Lộc - Thọ; may phúc thành may phước; phúc đức thành phước đức; diễm phúc thành diễm phước, v.v. Tuy nhiên, do không phải trọng húy mà chỉ là khinh huý, nên sự biến âm đã diễn ra chẳng triệt để. Vì thế cần lưu ý rằng trong Việt ngữ, chẳng phải bất kỳ trường hợp nào phước đều có thể thay thế hoàn toàn cho phúc. Ví dụ: hạnh phúc, phúc đáp, phúc âm, v.v. Tương tự trường hợp
hoa
đổi thành bông (do kiêng húy danh Tá Thiên Nhơn hoàng
hậu Hồ Thị Hoa), nhiều khi phúc biến ra phước
lại mang màu sắc có vẻ "thuần Việt" hơn. So sánh ân phúc
với
ơn phước ắt rõ điều này.
Đã
đăng tạp chí Tài Hoa Trẻ 251 (2003)
|
Một trong những biểu tượng của Tết Việt Nam cổ truyền: quả dưa hấu có dán xuân liên chữ phúc Chữ phúc với những con dơi Chữ phúc lộn ngược / phúc đảo Dưa hấu lập phương, vỏ màu vàng. nổi chữ phúc Váy "Bách phúc" do nhà thiết kế thời trang Đặng Bi tạo mẫu cho Hoa đán Lý Băng Băng |
|