1.
Nhờ ông giúp sức khơi dòng đầu,
Người vượt
trùng dương ngày càng nhiều.(1)
Người khơi dòng
đầu cho Phong trào Đông du không ai khác hơn là Tăng Bạt Hổ.
Chẳng những Phan Bội Châu và Đặng Tử Mẫn khắc tên Ông
đầu tiên trên bảng Việt Nam Nghĩa Liệt vì ông là "ngọn
sóng trước tiên của lớp thuỷ triều mới đang bành trướng,
ngọn lửa đầu tiên của bộ máy đang bộc phát" (2) mà Nguyễn
Thượng Hiền cũng đánh giá cao hành động của ông là "kết
thúc nghĩa hội cũ mà mở ra nghĩa hội mới". (3)
Tăng Bạt Hổ (1858-
1906) tên thật là Tăng Doãn Văn, "tên chữ là Sư Triệu, người
tỉnh Bình Định, bổn tính hào mại, kiến thức thấu suốt,
khí phách cương nghị. Trong lúc nói năng thì thái độ hoà
nhã, dịu dàng, gần gũi người ta"... (4) đã chiến đấu
trong nghĩa hội Cần vương Bình Định. Khi Cần Vương Bình
Định tan rã, ông thoát sang Trung Hoa. Người Pháp xem ông là
một phái viên rất đắc lực của Tôn Thất Thuyết bấy giờ
đang an trí ở Thiều Châu. Ông đi về thường xuyên giữa
Quảng Đông và Huế, nhờ thế mà sĩ phu ở Huế biết đến
những biến động ở Viễn đông. Chẳng những đọc tân thư,
ông còn lặn lội khắp vùng đông Á: Trung Hoa, Nhật Bản,
Đài Loan và từng xuống đến Nam Dương (Indonesia).
Mối quan hệ giữa
phái viên và chàng rể quan Phụ Chính hẳn đã gợi mở ra
nhiều vấn đề:
- Sự lạc hậu
của nền giáo dục từ chương khoa cử trên nền tảng tứ
thư ngũ kinh.
- Phong trào Cần
vương thất bại, con đường giải phóng dân tộc lâm vào
cuộc khủng hoảng tư tưởng và bế tắc.
- Phải phá vòng
kiềm hãm của thực dân đế quốc để đặt mối quan hệ
với Đông Nam Á: nước Nhật đã duy tân và hùng cường, Trung
Hoa đang thức tỉnh...
Nguyễn Thượng
Hiền đã nhớ lại một trong những lần gặp gỡ ấy: "Mùa
Xuân năm Mậu Tuất (1898) Sư Triệu từ nước ngoài trốn về,
gặp tôi ở Hà Thành, mới một lần mà đã như bạn cũ...
Tôi mới bàn với Sư Triệu là muốn cứu nước mà không lo
kết nạp anh hào và thăm dò con cháu các nhà có thù với
giặc thì không được..., nên đem họ xuất dương , tôi luyện
tài họ để ngày sau làm rường cột cho nước" (5)
Thật không thể
tin được rằng chính trong năm 1898 khi mà cuộc khởi nghĩa
vô vọng của Võ Trứ và Trần Cao Vân ở Phú yên thất bại
thảm hại thì phong trào Đông Du đã manh nha dù cho kế hoạch
của Tăng và Nguyễn đã không thực hiện được.
Chúng tôi ngờ rằng
những cuốn tân thư đầu tiên mà Nguyễn Thượng Hiền đã
có may mắn tiếp cận đã từ tay Tăng Doãn Văn. Phan Bội
Châu đã được đọc tân thư và nghe chuyện Tăng Bạt Hổ
từ Nguyễn Thượng Hiền: "... Tôi xem những pho sách
ấy mới hiểu qua được tình trạng cạnh tranh ở trong hoàn
hảo, thảm trạng quốc vong diệt chủng càng kích thích trong
vẻ sâu lắm. Tiên sinh lại kể những việc nghĩa dũng
của ông Tăng Bạt Hổ cho tôi nghe, tôi chôn sâu người
ấy ở trong lòng, và cái tư tương phá cửa sổ lồng đến
lúc đó mới manh động"(6)
Chẳng những là
"khơi múi, mở đầu", Tăng Bạt Hổ còn là người dẫn đường
cho Phan Bội Châu đông du và tích cực giải quyết những khó
khăn buổi đầu một cách hiệu quả. Phan Bội Châu đã
khắc hoạ chân dung Tăng một cách tuyệt đẹp:
"Ông tuổi ngoài
bốn mươi mà râu mày cốt cách, trời hạ sương thu, trông
qua một lần mà biết chắc là người duyệt lịch đã dày
lắm. Ngồi nói chuyện, ông kể tình hình ngoài bể rất
kỹ, mà nói đến nhân vật nước Tàu hiện thời càng rạch
ròi như đếm tiền trong túi. Tôi được gặp ông, mừng là
trời trao..." (7)
2. Phan
Bội Châu và Cường Để
Sau khi gặp
Tiểu La và thống nhất ý kiến với vịêc tìm kiếm một
Lê Trang Tông để ủng phù làm minh chủ và không bằng lòng
với một Tôn Thất Toại " khí thức ngó cũng tầm thường",
Phan Bội Châu đã ra Huế lân la giao tiếp với con cháu Hiệp
Hoà và con cả Đồng Khánh nhưng không thấy ai tâm hợp.
Cuối cùng, đã lâu ngày mới thăm dò được kỳ Ngoại hầu
là người "sẵn có chí lớn".
Kỳ ngoại Hầu
Cường Để thuộc dòng trưởng của vua Gia Long; hậu duệ
của Anh Duệ Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh. Chẳng may, Đông
cung mất sớmnên không thể kế thừa ngôi vị và Gia Long đã
chọn Hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm kế vị thay vì
cháu đích tôn là Phúc đường (Mỹ Đường) (8) mà đa số
đại thần ủng hộ: Ông của Cường Để là con của Mỹ
Đường: Cảm Hoá công Lệ Chung ( Duệ Chung) Hàm hoá Hương
công, con của Cảm Hoá, là thân phụ của Cường Để.
Theo Cường Để,
sau khi vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày, Phan đình Phùng đã
cho người liên lạc với Hàm Hoá và muốn Hàm Hoá thay Hàm
Nghi ở ngôi vị lãnh đạo tinh thần cho phong trào Cần Vương.
Hàm hoá lấy cớ tuổi già muốn giao lại địa vị ấy cho
Cường Để lúc bấy giờ mới mười hai tuổi (1894).
Việc không thực hiện được vì phái viên của Phan đình
Phùng là Hồ quý Châu lâm bệnh mất và năm sau cuộc
khởi nghĩa Hương Khê cũng chấm dứt cùng với sinh mệnh của
người lãnh đạo.(9) Mùa thu năm Quý Mão (1903), khâm sứ
Pháp Auvergne muốn truất phế Thành Thái, có thăm dò Cường
Để để thay thế nhưng việc không thành.
Lần thứ ba Cường
Để có cơ hội để trở thành bậc chí tôn là vào năm 1907.
Vua Thành Thái bị truất phế và Pháp cũng như triều đình
Huế tìm người kế vị. Thượng thư bộ công là Nguyễn hữu
Bài, theo Thiên Chúa giáo, đã không ngần ngại đề nghị với
người Pháp cho rước Cường Để, đang lưu vong ở Nhật Bản
với cương vị Hội chủ Duy tân hội, về Huế để đưa lên
ngôi! Giải thích sự kiện này, tài liệu Pháp cho biết từ
khi đặt nền đô hộ, một phe phái đã hình thành trong giới
quan lại và tín đồ Thiên Chúa giáo với mục đích đưa dòng
trưởng của Đông cung Cảnh lên ngai vàng ở Huế (10).
Không có gì khó hiểu ước muốn của dòng trưởng và ý đồ
của tín đồ Thiên chúa giáo nếu ta biết rằng Đông
cung Cảnh có mối quan hệ thân thiết với Bá Đa Lộc và muốn
cải đạo. Xu hướng đó cũng thể hiện trong vịêc Cường
Để giới thiệu Nguyễn Hữu Bài, Đốc vận Hiền... tham gia
Duy Tân hội năm 1904.(11)
Phải chăng chí
lớn của Cường Để xuất phát từ nhân thân của ông?
Phải chăng vì cảm nhận được điều đó mà Phan Châu Trinh
bài bác vị minh chủ của Duy Tân hội ? Sự thực lịch
sử cho thấy rằng Cường Để không cam chịu thân phận của
một Lê Trang Tông - vị minh chủ danh nghĩa- mà dần dà muốn
có thực quyền, càng không phải thực quyền của một người
lãnh đạo Duy Tân hội mà là thực quyền của một vị vua
tương lai.
Trong giai đọan
đầu khi Duy Tân hội mới thành lập (1904) bên cạnh những
Tiểu la Nguyễn Thành (1863) Châu Thương Văn (1856), Đỗ đăng
Tuyển (1856), Tăng Bạt Hổ (1858), Phan Bội Châu (1867) thì hội
chủ chỉ là một thanh niên mới ngòai hai mươi tuổi chưa
có chút thành tích gì trong khoa bảng, học vấn cũng như đấu
tranh. Vai trò một vị minh chủ danh nghĩa còn non tuổi
đời đã thể hiện rõ nét trong buổi đầu xuất dương.
Tại nhà Lưu vĩnh Phúc, nơi Tán tương Nguyễn Thiện Thuật
tá túc, hai vị lãnh đạo họ Phan - một của Duy tân hội,
một của Phong trào Duy tân công khai - bàn luận chính trị.
Phan Tây Hồ đã chỉ trích chế độ quân quyền thậm tệ,
cho rằng cái tệ quân chủ chuyên chế không trừ được thì
tuy phục quốc cũng chưa phải là hạnh phúc! Chẳng những
Cường Để chỉ "tựa cột mà nghe" mà sau đó trong một bức
thư gởi cho hòang tộc ở Huế đã tư xưng là người thừa
kế "giặc của dân". (12)
Dân tặc hậu Cường
Để bái cáo ư ngã tôn nhân liệt tôn...
Theo tài liệu của
Pháp, chữ dân tặc để chỉ ngôi quân chủ là một từ của
Phan Châu Trinh đặt ra khi đàm luận với các môn sinh của
Lương Văn Can ở Hà Nội nhân khoa thi Hội năm Giáp Thìn (1904),
manh nha ý tưởng vềmột nền cộng hòa... Cả những quan lại
trung thành với thực dân như Lê Hoan, Hòang Trọng Phu cũng
nhận được văn bản này. (13)
Và thật hợp lý
khi Phan Bội Châu đưa vị hội chủ vào học trường Chấn
Võ để được rèn luyện cùng với Nguyễn Thức Canh, Lương
Ngọc Luyến và Nguyễn Điển. Cường Để đã không chịu
được sự khổ luyện. Theo Nguyễn Thức Canh đến cuối
năm 1906 Cường Để mới nhập trường và rời trường và
tháng 11-1907. Một năm học tập "lơ đểnh bài vở nhà
trường nên thành tích bỉ nhân ở trường Chấn Võ bấy giờ
thường vào hạng kém" (14)
Trước khi về nước,
Phan Châu Trinh đã căn dặn Phan Bội Châu "quốc dân hy vọng
chỉ nơi mình ông. Kỳ ngọai hầu không cần gì đâu".
Lại ngõ lời với du học sinh trong bữa liên hoan tiễn đưa
"Khuyên anh em nên ra sức học hành, đến như vấn đề quốc
thể và chính trị tương lai thì không muốn phát biểu ý kiến"
(15)
Trong một bức thư
gởi riêng cho Cường Để, Phan Châu Trinh đả kích mạnh mẽ:
"Nhữ đặc bất
quá nhất học sinh, nhĩ ký vô quốc hỷ, hà sở vị dân?
Ký vô dân hỹ, hà sở vị chủ..."
(Anh bất quá chỉ
là một sinh viên bình thường. Đã không có nước làm
sao anh có quốc dân? Đã không có quốc dân, anh xưng chủ
với ai?...)
Tư liệu của Pháp
cho biết tức giận vì những lời đả kích trên, Cường Để
đã viết thư cho các quan lại thân thiết của ông ở triều
đình Huế tố cáo thái độ chống quân chủ của Phan mà hậu
quả là bản án nặng nề dành cho Phan nhân vụ Chống thuế
1908. (16)
Thực ra chẳng cần
thư của Cường Để (nếu có), Phan Châu Trinh đã mua chuốc
óan thù với trìều đình Huế bằng thư gởi toàn quyền Paul
Beau rồi! Cường Để sau khi rời trường Chấn Võ
cũng là lúc học sinh Nam Kỳ du học ngày càng đông. Sự
ngưỡng mộ của đồng bào Nam Kỳ đối với hội chủ dòng
dõi Đông Cung cũng như sự tôn sùng vị hội chủ của học
sinh Nam Kỳ đã tạo cho Cường Để một tư thế mới.
Các du học sinh diện kiến Cường Để đều phải lạy 5 lạy
như là nghi lễ quân thần!(17). Khác với du học sinh Bắc
Kỳ và Trung kỳ luôn coi Phan Bội Châu là người lãnh đạo
quan trọng và thực sự của Hội, các học sinh Nam Kỳ còn
nặng tư tưởng tôn quân đã xem Cường Để là người lãnh
đạo cao nhất và Phan Bội Châu chỉ giữ vai trò phụ tá.
Cường Để lấy
lại họ Nguyễn Phúc, một cách từ chối cách đặt tên theo
phiên hệ mà Minh Mệnh áp đặt cho tất cả hậu duệ của
11 anh em của ông. Ông lấy tên Nguyễn Phúc Dân, tương
tư như tên của hai người con của Đông cung Cảnh là Phúc
Thùy và Phúc Đường. Aán của ông khắc Gia Thành (vương
hiệu hay niên hiệu ?) khiến người ta liên tưởng đến niên
hiệu Gia Long của Thế tổ nhà Nguyễn (18).
3. Về tấm ảnh
Cường Để - Phan Bội Châu
|
Ảnh
Cường Để và Phan Bội Châu |
Tấm ảnh mà chúng
tôi muốn đề cập ở đây là tấm ảnh Cường Để và Phan
Bộ Châu. Mấy điểm cần chú ý:
- Cường Để và
Phan Bội Châu đều mặc lễ phục Tây phương rất trang trọng.
- Ảnh được chụp
trong một tiệm ảnh chứ không phải ở trong nhà hay ngòai
trời.
Hai điểm đó cho
thấy đây là là một tấm ảnh chính thức được chụp với
một mục đích sử dụng nào đó. Có điều Hội chủ
thì đứng trong khi vị tổng lý thì ngồi ngay ngắn trên ghế.
Tấm ảnh vì thế sẽ là lời cải chính những ai tin rằng
Hội chủ Cường Để là người lãnh đạo đích thực và
Phan Bội Châu chỉ là người phụ tá, cho dù là một phụ
tá đắc lực. Phải chăng không tiện nói rõ với học
sinh Đông Du và nhất là học sinh gốc Nam Kỳ, Phan Bội Châu
đã chủ động và có dụng ý khi cho chụp tấm ảnh trên?
Dù thế nào chăng
nữa, sau khi cả hai bị trục xuất ra khỏi đất Nhật,
Phan Bội Châu và Cường Để đã không còn gắn kết trong
họat động. Khi thành lập Việt Nam Quang Phục hội năm
1912 thì hợp tác giữa Cường Để và Phan Bội Châu chỉ còn
là danh nghĩa. Việc Việt Nam Quang Phục hội minh định
tôn chỉ của hội là "Khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt
Nam Cộng hòa Dân quốc" đã bị các đại biểu Nam Kỳ phản
đối. "Đồng bào trong Nam dối với Kỳ ngoại hầu tín
ngưỡng rất sâu, não chất ấy chưa bỗng chốc mà đổi được".
(19)
Cường Để lúc
bấy giờ ở Hồng Kông đã tránh mặt không tham dự.
Dù vậy, hội nghị thành lập VNQPH vẫn dành cho Cường Để
chức vụ Hội trưởng kiêm Bộ trưởng Tổng bộ.
Ông hội trưởng
Cường Để nói gì về tổ chức vừa được cải tổ:
"Tháng 5 năm Nhâm
Tý (1912), ông Phan Bội Châu mời bỉ nhân về Quảng Châu để
tiến hành sự cải tổ Việt Nam Quang Phục hội, song bỉ nhân
khi ấy mắc bệnh không về được, nên viết thư giao quyền
cho ông Phan tiện nghi hành sự. Oâng Phan được bầu chọn
là tổng lý, tức là người thay quyền hội chủ chấp hành
việc hội. Hoàng Trọng Mậu làm bí thư" (20) Vị
hội trưởng đã không nói gì đến sự thay đổi tôn chỉ
của VNQPH, cũng không buồn nói đến tổ chức của hội gồm
Tổng vụ bộ mà Cường Để đứng đầu, Bình nghị bộ và
Chấp hành bộ gồm tất cả 15 người phụ trách. Hoàng
trọng Mậu chỉ giữ chức Quân vụ ủy viên lại được Cường
Để xem là nhân vật thứ hai sau Phan Bội Châu và không thừa
nhận minh bạch chức hội trưởng của mình.
Nhận xét về tổ
chức mới được thành lập, Cường Để viết:
"Nhưng làm việc
mà kinh tế tự mình không có, chỉ có người ngoài giúp đỡ
khó có kết quả tốt nên những họat động của ông Phan
hồi ấy lúc đầu tuy có rộn rực nhưng sau chẳng khỏi
im dần đi, cho đến cuối năm thì cơ hồ không có gì nữa".
Việc của VNQPH
là việc của ông Phan, và cơ hồ không còn gì vào cuối năm
1912. Không còn gì hay còn gì thì trên thực tế VNQPH không
còn chỗ trong tâm trí Cường Để. Và Cường Để có
những họat động độc lập: về Nam Kỳ ba thánng (1913) quyên
góp chừng 50.000 đồng, đi Aâu Châu tám tháng (1913-1914).
Từ đó Cường Để hầu như không còn họat động nào liên
quan đến VNQPH dù trên danh nghĩa ông vẫn là hội trưởng.
Thậm chí khi đề cập đến cuộc khởi nghĩa năm 1916 mà vua
Duy Tân đồng ý tham dự , cũng không biết (và làm như không
biết?) rằng cuộc khởi nghĩa đó là do VNQPH trong nước tổ
chức. Cường Để cũng không hề nhắc đến cuộc khởi
nghĩa Thái Nguyên (1917) do Lương Ngọc Quyến (người đồng
chí đã cùng ông học một thời gian ở trường Chấn Võ)
với danh nghĩa VNQPH. Từ năm 1912 cho đến lúc Phan Bội
Châu bị bắt (1925), Cường Để và Phan Bội Châu đã thực
sự không còn chung chí hướng và họat động.
Trần
Viết Ngạc
|