Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[
Tác giả ]
|
|
Một đoạn Trường Lũy còn lại đến ngày nay Trường Lũy Quảng Ngãi (gọi tắt là Trường Lũy), hay Trường Lũy Quảng Ngãi-Bình Định, Tĩnh Man trường lũy (gọi theo sử Nguyễn); đều là tện gọi của một công trình kiến trúc lớn, đa dạng, nhiều phần được làm bằng đá hoặc đất, chạy dọc theo miền thượng đạo Quảng Ngãi-Bình Định, bắt đầu từ huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đến huyện An Lão (Bình Định) thuộc Việt Nam [1]. Theo nhiều nhà nghiên cứu gần đây, thì đây là một trường lũy dài nhất Đông Nam Á, và đã được các chúa Nguyễn cho khởi xây từ thế kỷ 17. Song, lúc bấy giờ chỉ là những đồn canh và đoạn lũy ngắn, phải đến sau 1819 (năm Lê Văn Duyệt xin dựng), thì nó mới thật sự trở thành một "trường lũy" có tầm vóc. Cho nên nói rằng Lê Văn Duyệt là người khởi công xây dựng Trường Lũy Quảng Ngãi như sử Nguyễn đã chép, xét cũng không có gì mâu thuẫn. |
1. Nguyên nhân, năm khởi dựng: |
Trước triều đại
nhà Nguyễn, vì nhiều nguyên nhân, một số dân tộc ở Đá
Vách (Quảng Ngãi, phần đông là tộc người H'rê) đã nổi
lên chống đối triều đình. Tuy nhiên, việc chống đối này
trở nên quyết liệt hơn kể từ khi vua Gia Long lên ngôi. Sách
"Quốc triều sử toát yếu" (phần Chính biên) chép:
"Tháng 4 năm Quý Hợi (1803), Lê Văn Duyệt phá tan mọi Đá Vách. Ngài (Gia Long) hạ chiếu khen thưởng" [tr. 81]. Mặc dù vậy, vẫn không
sao tiêu diệt được. Sách "Đại cương lịch sử Việt Nam"
(Quyển I) có đoạn:
Để chặn đứng nguy
cơ "bị uy hiếp, tràn lấn của ác man Đá Vách", năm
Gia Long thứ 18 (1819), Tả quân Lê Văn Duyệt xin đắp "lũy
Bình Man" (nay gọi là Trường Lũy Quảng Ngãi, vì phần lớn
lũy nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi) và được vua chấp
thuận. Sách "Vũ Man tạp lục thư" (được khắc in năm 1898
dưới triều vua Thành Thái) của Tĩnh Man tiễu phủ sứ Nguyễn
Tấn, chép:
Tương tự, sách "Viêm
Giao trưng cổ ký" (Ghi chép sưu tập di tích cổ nước Nam)
của Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục, hoàn thành năm
1900, chép:
Tuy nhiên, theo một số
nhà nghiên cứu gần đây, thì Trường Lũy đã được các
chúa Nguyễn cho khởi xây từ thế kỷ 17. GS Phan Huy Lê nêu
ý kiến:
Tin theo đây, thì Tả
quân Lê Văn Duyệt chỉ là là người có công tu sửa và bồi
đắp thêm lũy cổ, và công việc này về sau còn phải làm
nhiều lần. Tra trong "Viêm Giao trưng cổ ký" thấy có đoạn:
Tra trong "Đại Nam thực
lục" (Tập 28), cũng thấy có thông tin đại ý như sau:
|
2. Kích thước, địa thế, cấu tạo: |
Trường Lũy Quảng Ngãi,
các tài liệu ghi không thống nhất. Theo "Đại Nam thực lục"
thì lũy có chiều dài là 117 dặm, còn sách "Viêm Giao trưng
cổ ký" thì ghi là 177 dặm [3]. Sở dĩ có sự khác biệt này,
có lẽ là do độ dài của Trường Lũy ở thời điểm được
ghi chép.
Song, trong các công bố
gần đây, độ dài của công trình vẫn còn nhiều khác biệt:
Về mặt địa thế, lũy nằm theo con đường thượng đạo Bắc Nam, nơi từng là lộ trình cho các cuộc hành quân lịch sử thời xưa. Như vào năm 1786, khi quân Tây Sơn kéo từ Thị Nại ra đánh lấy Phú Xuân, họ đã dùng con đường thượng đạo này để di chuyển mà không bị cản trở như ở hạ nguồn vì nơi đó có những cửa sông lớn chắn lối. Về cấu tạo, Trường Lũy đắp bằng đất và đá (to bằng đầu người), cao 2m, dày 1,5m, phía ngoài có hào sâu rộng trên 3m và một hàng rào tre gai. Khảo sát bờ Trường Lũy chạy qua La Vuông (Bình Định) còn khá nguyên vẹn, thì thấy lũy có dáng hình thang, chân rộng 4-5m, mặt thành 2-3m có thể đi lại tuần tra thuận tiện. Tuy đây là một ranh giới nhưng không phải là một ranh giới đóng kín. Lũy cắt ngang qua nhiều sông, suối. Mỗi chỗ cắt ngang lại có một cổng, do một đồn bảo canh gác điều hành việc đi lại giữa cộng đồng người Việt và người H'rê. Song cái đáng chú ý của Trường Lũy không chỉ ở độ dài, mà còn vì công trình được đắp hoàn toàn trên một địa hình rất khó khăn và phức tạp, gần như theo địa hình, hướng thành không theo một hướng nào nhất định, khi thì trên đỉnh núi, khi thì sườn đồi, dọc theo suối. Phải là người uyên bác mới tính toán được vậy, và phải tốn biết bao công sức của bao thế hệ người Việt mới được vậy. |
3. Lịch sử sơ lược: |
Sách "Viêm Giao trưng
cổ ký" của Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục, đã kể
về lịch sử của Trường Lũy như sau:
Trường lũy người Man ở cách tỉnh thành 23 dặm về phía tây. Phía bắc lũy giáp huyện Hà Đông (thuộc phủ Tam Kỳ) tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp huyện Bồng Sơn tỉnh Bình Định. Lũy dài 177 dặm. Xét: Một dải dọc theo ranh giới xung quanh tỉnh thành trước nay thường có bọn ác man Thạch Bích ngang ngạnh hoành hành. Hồi đầu dựng nước đã lập ra 6 đạo binh lính bám sát địa phương để phòng thủ. Năm Gia Long thứ 3 (1804) lập ra 6 kiên cơ đạo Bình Man. Năm thứ 18 (1819), Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt đắp Trường lũy, trồng hàng rào, đào hào chắn. Bên trong thiết lập 115 đồn bảo, mỗi đồn đóng 18 lính, tổng cộng 1.150 người. Lại lấy các xã thôn thượng du của 3 huyện đặt làm 27 lân theo binh lính của 6 Kiên cơ tiến hành phòng thủ...Mỗi lân đặt ra chức Cai lân, Phó lân để cai quản. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), đổi 6 Kiên cơ thành 6 cơ Tĩnh Man, xây thêm đồn bảo vệ, thành 117 đồn. Năm thứ 17 (1836), trích cơ thứ 6 ra lập thành vệ Nhất Quảng Ngãi, tùy theo tình hình địa bàn mà bổ sung thêm cho 5 cơ còn lại để tiện cho kế hoạch ứng phó. Năm thứ 20 (1830), chuyển giao cho Lãnh binh của tỉnh quản lãnh công việc này. Sang đời Thiệu Trị, cắt giảm số đồn xuống chỉ còn 56 đồn, số lính của 5 cơ là 2.150 người, mỗi cơ đặt ra một viên Chánh Quản cơ và một viên Phó Quản cơ, mỗi đồn đặt một viên Suất đội, đóng ở các cửa tấn để phòng thủ, tất cả do viên Lãnh binh cai quản chung. Trải lâu năm lũy bị đổ nát, nhiều toán quân Man vượt quan lũy đến cướp bóc các làng dưới xuôi. Năm Tự Đức thứ 8 (1855), trùng tu Trường lũy. Năm thứ 9 (1856), chia đặt ra 80 đồn, bổ sung thêm binh lính thành 8 cơ, chia thành 3 ban, cứ 2 tháng thay phiên nhau một lần. Năm thứ 10 (1857), đặt chức Tuần phủ 1 viên, về sau lại bãi. Năm thứ 16 (1863), đặt chức Tiễu phủ 1 viên, Phó lãnh binh 1 viên để khi có xảy ra việc thì cùng bàn bạc với nhau mà giải quyết. Năm thứ 17 (1864), lại đổi 8 cơ thành 6 cơ, mỗi cơ 10 đội, lại kén tuyển lính chiến thành 1 vệ, vệ có 12 đội, chiêu mộ 5 đội Nghĩa Hùng, 2 đội Tĩnh Man, đặt 3 đồn lớn Tĩnh Man, còn các cơ đồn khác tùy xét mà cắt giảm. Những nơi xung yếu thì do binh lính của cơ đóng giữ, nơi dễ dàng hơn thì do dân của các lân canh giữ. Hiện nay chỉ còn 47 đồn nhỏ, 3 đồn lớn, tổng cộng 50 đồn [tr. 194-195.]. |
4. Vai trò của Trường Lũy đối với nhà Nguyễn: |
Trường lũy xưa, triều
Nguyễn xây dựng mang tính chất phòng vệ, song hiệu quả không
cao, vì "quân Đá Vách dùng lối đánh du kích ẩn hiện khó
lường, mà quân triều từ nơi khác đến đóng giữ lâu ngày
không quen thủy thổ", và vì họ đều có "tài nghệ chiến
đấu" . Tướng Nguyễn Tấn trong "Vũ Man tạp lục thư", kể:
Người Man ở tỉnh tôi, tính tình hung hãn, đi đứng chạy nhảy lanh lẹ, đến như luồng điện sáng, đi tựa ánh chớp. Dựa vào nơi hiểm yếu, bắn tên phóng lao, đó là môn sở trường của họ vậy...Trước đây quan binh đã từng bị chúng đánh thua, và chẳng phải là một lần mà thôi [tr. 219 và 220.]. Rút lại, theo GS. Nguyễn
Phan Quang trong Việt Nam thế kỷ XIX, thì:
|
5. Được trong và ngoài nước chú ý: |
Ngày 27 tháng 3 năm 2011,
đoàn đại sứ các nước Châu Âu gồm: Pháp, Ba Lan, Hungary,
Anh, Hy Lạp, Romania và Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam Sean
Doyle cùng các nhà khoa học nước ngoài cùng UBND tỉnh Quảng
Ngãi đã tổ chức hội thảo "Lịch sử quan hệ kinh tế và
dân tộc" về di tích quốc gia Trường Lũy Quảng Ngãi.
Tại hội thảo, tham
luận của các nhà khoa học đều thống nhất rằng:
Ngày 10 tháng 3 năm 2011, Trường Lũy Quảng Ngãi đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp Quốc gia.
|
Chú thích: |
[1] Trường Lũy chạy
dọc theo dãy Trường Sơn, đi qua địa phận 6 huyện thuộc
Quảng Ngãi, gồm: Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Minh
Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ; và 2 huyện thuộc Bình Định,
gồm: Hoài Nhơn, An Lão).
[2] Trích trong bài viết "Giải mã Trường lũy dài nhất Đông nam Á" trên báo Thể thao Văn hóa. [3] nếu tính 1 dặm là 444,44m (số đo cổ được áp dụng thời Nguyễn) thì 117 dặm chỉ hơn 50 km. Nếu là 177 dặm thì chưa đầy 80 km. |
Sách tham khảo: |
-Quốc sử quán triều
Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 28 (bản dịch). Nhà
xuất bản Sử học và Nhà xuất bản Khoa học xã hội hợp
tác ấn hành, Hà Nội, 1962-1972.
-Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên, bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2002. -Cao Xuân Dục, Viêm Giao trưng cổ ký (bản dịch). Nhà xuất bản thời đại, 2010. -Trương Hữu Quýnh-Phan Đại Doãn-Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập I). Nhà xuất bản Giáo dục, 2007. -Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002. |
|