|
Trên con
đường đi t́m hiểu nguồn gốc, có
đôi chỗ sương mù dày đặc mà ta nên tránh kẻo
không bao giờ t́m thấy lối ra. Chỗ thứ nhứt:
“Bách Việt”. Nói cho gọn
như William Meacham [1], Bách Việt là tên mà người Hán
dùng để gọi chung những nhóm người
“không-phải-Hán” (unsinicized) sống rải rác ở miền
nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam ngày nay vào
đời Tần-Hán (225BC – 221AD) thí dụ Mân Việt, Nam
Việt, Lạc Việt,... c̣n từ đời Đường-Tống
trở đi, những sắc dân ở miền nam Trung Quốc
không gọi là Việt mà là những cái tên khác thí dụ Li,
Mien,... Trước
hết, ta suy nghĩ một chút. Thí dụ
sách Tàu không nhắc ǵ tới Bách Việt, th́ ta biết là
có Bách Việt trên đời này hay không? Không. Như vậy,
“Bách Việt” là một ư niệm mà ta t́nh cờ lượm
được trong sách Tàu đem cất trong đầu,
cùng một mớ những ư niệm na ná như “Câu Tiễn”,
“Lạc Việt”, “Nam Việt”,... Cho đến
một lúc nào đó, một ai đó lấy mấy ư niệm
đó ra chắp lại với nhau dệt nên câu chuyện
như sau (trích Việt sử
toàn thư của Phạm văn Sơn): (từ
đây trở đi, phần trích dẫn sẽ là chữ
màu tím, dù là nguyên văn hoặc
bản dịch) ...Đến ngày nay, căn cứ vào thuyết của
L. Aurousseau và tài liệu của Đào Duy Anh người
ta gần như có thể quyết định rằng
người Việt Nam bây giờ tức là người Lạc
Việt thuở xưa sinh tụ ở miền Nam bộ
Trung Quốc, sau này trôi rạt xuống lưu vực sông
Nhị Hà... Câu chuyện
đó tới nay cũng được xào nấu ra vài
“version” khác nhau, thí dụ như đă nêu ở phần
1, và c̣n được thổi phồng như dưới
đây: ...Nhà Hán đă chiếm văn hóa tiền và sơ sử
của Bách Việt trên lục địa Trung Hoa từ
trước. Nay lại chiếm luôn cả văn hóa
sơ sử Việt Nam của nước Lĩnh-Nam của
vua Trưng Trắc từ Động Đ́nh Hồ trở
xuống Miền Bắc và Miền Trung Việt Nam cổ... Cái “văn
hóa tiền và sơ sử của Bách Việt”
được cho là lớn lắm: ...chủ nhân của Kinh Dịch chính là người
Bách Việt, cụ thể hơn là của người Âu
Việt và Lạc Việt. …người Hán trong quá tŕnh xâm lược đă sử
dụng ngôn ngữ của người Bách Việt, cụ
thể là của Ngô Việt (tại vùng Việt Châu, tỉnh
Chiết Giang và Phúc Kiến ngày nay) để cải tiến
thành chữ Hán, rồi thành tiếng Trung hiện đại. …đúng ra người Bách Việt mới có thể
là chủ thể của sản vật tơ lụa làm từ
cây dâu tằm chỉ có ở vùng đất
phương Nam. Hết thảy
đó đều là những ư niệm, và những ǵ
người ta đang làm là thi nhau chơi tṛ tung hứng
những ư niệm đó như những trái banh, để
xem ai tung hứng nhiều lần hơn, đẹp mắt
hơn. Chừng
nào Bách Việt c̣n là một ư niệm xơ cứng, th́
chuyện đi nhận bà con với cái đó hoặc cho rằng
cái đó có thể làm chuyện này chuyện kia, cũng giống
như đi nhận bà con với một cái xác ướp
có cách đây ba ngàn năm hoặc cho rằng cái xác đó
có thể đứng dậy tà tà bước đi. Ngay cả chuyện họ tự
xưng là ǵ, ta cũng chẳng biết, ta cứ măi chạy theo hai chữ “Lạc
Việt” mà đoán suông. “Lạc” th́
đoán là “các”,
là “nước”,
là “lúa”,
“Việt” th́ đoán là “chim”,
là “mặt
trời, rồng, tiên”, là cái tên “do chính tổ tiên
của người Việt đặt cho dân Việt”. Nhưng thí
dụ họ tự xưng là Xí-xô-xí-xào, th́ ta đoán thế
nào chăng nữa cũng có ích chi? Chừng
nào ta quan tâm t́m hiểu Bách Việt như những người
bằng xương bằng thịt, họ nói thứ tiếng
ǵ, họ thuộc về những haplogroup nào,... th́ lúc
đó mới tính chuyện đi nhận bà con với họ,
xem họ có văn hóa ǵ. Họ có thể
có văn hóa ǵ? Sumitr Pitiphat et al [2] cho rằng cái “văn
hóa Việt” phát ra từ một nơi nào đó bên mỏm
sông Dương Tử, mang ảnh hưởng của
người nước Sở 3000 năm trước, có
đặc điểm như sau:
Ta
lưu ư rằng những nhóm thiểu số ở Việt
Nam (viết tắt “VN”) cũng có cái “văn hóa Việt”
như trên. Hồn: Người Ba Na quan niệm con người có ba hồn
với một hồn chính nằm ở đỉnh đầu,
hai hồn phụ nằm ở trán và trong cơ thể.
Người Ê Đê cho rằng: “Có ba linh hồn khác nhau
trong một cá thể: m’gat sinh ra các giấc mơ và
được cầu khấn sau khi chết; m’ngah là
hơi thở của sự sống, nó đi lang thang sau
khi con người chết, trước khi t́m được
thể xác khác để đầu thai; tleng hea (...) là một
trong những h́nh thức của linh hồn, trong trường
hợp này là một con chim”. Người M’nông cho rằng:
“Mỗi con người có nhiều hồn (heeng), mỗi hồn
có nhiều dạng và có thể nói là có cách cư xử
riêng: hồn thạch anh trú ở ngay sau trán, hồn nhiệt
thoát ra khỏi đầu khi ngủ, hồn trâu được
các thần (yang) nuôi dưỡng trên trời”. Người
Xơ Đăng h́nh dung trong mỗi con người b́nh
thường bao giờ cũng tồn tại sáu linh hồn,
tên gọi mỗi linh hồn thông thường được
gọi trùng với số thứ tự của linh hồn
ấy … (c̣n
người VN bây giờ nói “hết hồn”, “hồn vía
lên mây” phải chăng cũng là dấu tích của cái
“văn hóa Việt” đó?) Trong đời sống văn hóa của người
Thái Tây Bắc xưa, thầy mo có một vai tṛ rất
quan trọng. Đó là những người không chỉ
thông thạo văn tự cổ, lưu giữ được
nhiều sách cổ của cha ông, thông thạo phong tục
tập quán, những lễ nghi của dân tộc, mà c̣n là
người có khả năng giao tiếp với các thế
lực siêu nhiên, có thể cầu xin các đấng siêu
nhiên phù hộ cho con người có một cuộc sống
ấm no hạnh phúc và hướng dẫn con người
những cách thức ứng xử với các thế lực
siêu nhiên… ...Lấy chồng được hai năm, chị
sinh một cháu trai kháu khỉnh, cuộc sống của chị
vẫn diễn ra b́nh thường như bao người
khác. Thế rồi vào một đêm tháng giêng rét buốt,
cả cái bản Pác Thay của tôi ầm ầm như núi
lở. Người trong bản thi nhau thắp đuốc,
đổ về hang Ngườm Vài. Tôi cũng theo họ
đến đó, người trong bản đă tụ tập
rất đông, đèn đuốc sáng rực, họ quỳ
xuống khấn vái và hát những câu bùa chú của người
Tày. Ở giữa hang chị họ tôi đang nhảy múa.
Lúc này trông chị tôi thật đáng sợ, tóc chị rối
mù, hai mắt mở trừng trừng, trắng dă, miệng
luôn gào thét điều ǵ đó, và đặc biệt chị
tôi chỉ di chuyển bằng năm đầu ngón chân
như diễn viên múa ba lê vậy. Mé tôi th́ thào: “Te Leeng luồng phụt da né…” (Cái Leeng bị
bụt nhập rồi). Người trong bản, sau khi thấy
chị họ tôi ngồi xuống mắt nhắm nghiền
lại th́ lập tức vác đến một bó gai
găng. Những cây gai sắc nhọn ấy nhanh chóng
được xếp lại như một cái ghế. Thế
rồi mé tôi tiến lại phía chị nói ǵ đó, chị
từ từ mở mắt, thản nhiên đi đến
cái ghế được làm bằng vô vàn những cây gai
sắc nhọn kia và ngồi xuống. Không những ngồi
xuống, chị c̣n bắt đầu đu đưa và
ca hát. Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể quên
được h́nh ảnh ḱ dị đó. Chị họ
tôi ngồi hát và đu đưa trên cái “ghế” chết
người đó chừng một tiếng đồng hồ
th́ đứng dậy, chạy như có ai đuổi và cũng
chỉ chạy bằng năm đầu ngón chân. Đá
núi, gai nhọn h́nh như không làm chị đau đớn,
chị cứ thế chạy, người trong bản cứ
thế đuổi theo, cho đến dưới một
gốc cây bưởi, chị tôi giật lấy một nắm
lá rồi ăn ngấu nghiến. Một lát sau chị tôi
sùi bọt mép và ngất xỉu. Bấy giờ người bản tôi mới bảo
anh Bường -chồng chị -cơng về nhà. Tôi nhớ
rất rơ khuôn mặt sợ hăi của anh Bường lúc ấy,
cả đứa con trai hai tuổi kia nữa. Anh rể
tôi vừa khóc vừa cơng chị về, c̣n thằng bé, nó
gào lên sợ hăi. Rất nhiều ngày sau, chị Leeng nằm liệt
giường, mê sảng cho đến một buổi chiều
chị ngồi dậy, tự ḿnh thắp hương rồi
hát những bài ca thần bí. Người trong bản bảo,
chị tôi đă trở thành “mé Pụt”... Một tài liệu [3] cho rằng tổ
tiên hai nhóm Bách Việt
và Bách Bộc, gọi chung Bộc-Việt, sống trước
đời nhà Tần ở một vùng bao la gồm Sơn
Đông, bán đảo Liêu Đông, đông Tứ Xuyên, Hồ
Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, An Huy và phía nam sông Hoài bây giờ,
là những người đă làm nên cái gọi là “văn hóa Chinglienkang” mà di tích c̣n để lại
trong vùng. Đó là một nền văn hóa đồ đá
mới của những người biết trồng lúa,
săn thú, đánh cá, biết làm đồ gốm sơn
màu, xài ŕu đá h́nh thang, rựa, cuốc, sống vào nửa
sau của 4000 năm trước tây lịch ở Giang Tô
miền đông Trung Quốc bây giờ: …a Neolithic archaeological culture (late fourth millennium B.C.) in
East China, in what is now Kiangsu Province. The principal occupation of the
population was rice growing, although hunting and especially fishing were
also important in the economy. The pottery was hand modeled and sometimes
painted. Characteristic tools included trapezoidal stone axes, long
harvesting knives, and adzes... Cũng
theo tài liệu trên, người Bộc-Việt sống gần
biển, sông, hồ, đầm, nên họ giỏi bơi
lặn; họ có tục ngâm em bé mới đẻ xuống
nước, chôn người chết trong hang đá trên
cao, hớt tóc
ngắn, xăm ḿnh, nhổ răng cửa, mặc sà-rông,
thờ chim với rắn. Ta lưu ư rằng người
Brau ở Kontum
cũng có tục xăm ḿnh, nhổ răng cửa, và
người Thổ
ở Nghệ An cũng có tục ngâm
em bé xuống nước: Theo phong tục, mỗi lần người phụ nữ
Đan Lai sinh con, chỉ sau một ngày họ mang ngay đứa
con nhỏ xuống ḍng sông Giăng nhúng xuống nước
lạnh. Người Đan Lai cho rằng, sông Giăng là
nguồn sống của cả bộ tộc, v́ vậy những
đứa trẻ sinh ra đều phải được
tắm dưới sông để chúng sau này lớn lên
thích nghi được với môi trường tự
nhiên, sẽ khỏe mạnh như cây cổ thụ trong rừng,
như con hổ vồ mồi. Người
Bách Việt nói tiếng ǵ? Jerold Edmonson [4] cho rằng
họ nói những thứ tiếng Tai-Kadai. Bản
đồ dưới đây cho thấy địa bàn
của những người nói 92 thứ tiếng
Tai-Kadai thời nay. Stanley
Starosta [5] th́ cho rằng người Bách Việt nói những
thứ tiếng Hmong-Mien. Bản
đồ dưới đây cho thấy địa bàn
của những người nói 38 thứ tiếng
Hmong-Mien thời nay. Lee và Clontz
[6] nêu rằng Tai-Kadai là những thứ tiếng bắt
nguồn từ những thứ tiếng xưa của
người Bách Việt bị pha với những thứ
tiếng xung quanh như Sino-Tibetan và Hmong-Mien. …it is a consensus
among linguists and historians that Tai–Kadai languages are descents of
ancient Baiyue languages and are heavily influenced by neighboring languages
in a contact relationship such as Sino–Tibetan and Hmong–Mien, borrowing many
loanwords and being sinicized. William
Meacham [1] cho rằng người Bách Việt nói nhiều
thứ tiếng: ...Gạt tiếng Austronesian (Nam Đảo) qua một
bên, có lẽ những nhóm người kêu bằng “Bách Việt”
đời nhà Hán họ nói đủ những thứ tiếng
Hmong-Mien xưa, Tai-Kadai xưa, Austroasiatic (Nam Á), và cả
những thứ tiếng khác mà bây giờ không c̣n. Hơn nữa,
trong từng nhóm Việt mà người Hán ghi nhận,
như Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt, Lạc Việt,
cũng có nhiều thứ tiếng không chừng. Ngay
như một nhóm Lạc Việt ở tây nam Trung Quốc
và VN cũng đă gây lắm khó khăn cho việc quản
lư v́ họ nói đủ thứ tiếng khác nhau... Giới khảo
cứu Trung Quốc (viết tắt “TQ”) cho rằng những
nhóm thiểu số nói những thứ tiếng Tai-Kadai ở
bển đều là con cháu (descendants) của người
Bách Việt, dù ta không biết những nhóm đó có tự
nhận như vậy hay không. Người
Bouyei có cùng tổ tiên với
người Zhuang. Người Việt xưa gồm những
sắc dân như Tây Âu và Lạc Việt ở Quảng
Đông, Quư Châu. Tiếng nói của người Bouyei và
Zhuang giống như tiếng nói của người Lạc
Việt xưa, ngoài ra, người Bouyei vẫn theo tập
quán của người Việt xưa; như vậy cho
thấy nguồn gốc của người Bouyei. (Ở
đây không cho biết “người Lạc Việt
xưa” nói thứ tiếng ǵ và có tập quán ǵ?) Người
Maonan tự xưng Anan nghĩa
là “người bản xứ”, gốc Bách Việt. Họ
có dây mơ rễ má với người Liao sống
trước đời Đường và người
Ling sống qua mấy đời Tống, Nguyên, Minh. Người
Shui có lẽ là con cháu người
Lạc Việt, một nhóm ở ven biển đông nam TQ
trước đời Hán (206 BC – 24 AD). Tên gọi người
Shui bây giờ có từ cuối đời Minh (1368-1644). Họ
có chữ viết, nhưng nay chỉ c̣n một ít dùng trong
việc thờ cúng. Xưa hễ có ai ốm, chết hay gặp chuyện
không may, người Shui cho là ma làm, kêu thầy mo (shaman) tới
cúng. Người
Li được cho là con cháu một
nhóm Việt xưa, có bà con gần với nhóm Lạc Việt,
di cư từ Quảng Đông, Quảng Tây, qua đảo
Hải Nam, trước cả đời Tần (221-206
BC). Đồ khảo cổ trên đảo cho thấy tổ
tiên người Li đă tới đó ở từ 3000
năm trước, cuối đời Thương, đầu
đời Chu. Người Li có bà con gần với những
nhóm người Zhuang, Bouyei, Shui, Dong, Dai, có tiếng nói giống
nhau, ở cả giọng đọc, văn phạm và ngữ
vựng. Người
Zhuang gốc từ một nhóm Việt
xưa, có bà con gần với người Tây Âu, người
Lạc Việt, đời
Chu-Tần, và người Liao, người Li, người
Wuhu, đời Hán-Đường. Người Zhuang tự xưng như vậy từ
xưa, họ
có chữ viết từ thời Nam Tống (1127-1279)
nhưng không dùng nhiều. Họ có tục xăm ḿnh,
ăn trầu, thờ núi non, cây cối, rồng rắn,
chim c̣, ông bà. Ta lưu ư
rằng những nhóm thiểu số ở VN như Khmu, Bru,
E-De, Chàm cũng có tục ăn trầu. Người
Dong, hậu
duệ Bách Việt, gốc từ một bộ lạc
Tây Âu đời Tần, Hán. Họ tự xưng “Gan”.
Đời Tống, người ta gọi họ là Qiling. Người
Dai là con cháu Bách Việt xưa, bà
con gần với người Zhuang, Dong, Shui, Bouyei và Li.
Sách Tàu gọi người Dai là Danyue hoặc Shan từ
năm 1 BC. Người
Gaoshan gồm nhiều nhóm thiểu số nói những
thứ tiếng Austronesian ở Đài Loan cũng được cho là con cháu của một nhánh Bách Việt vào
thời đồ đá sống cặp bờ biển (Phước
Kiến bây giờ), sau đó pha trộn
với những nhóm người di cư từ
Philippines,... Ngoài ra, 3
nhóm nói những thứ tiếng Austroasiatic bên phía TQ là Wa, Bulang và
Deang
th́ được cho là con cháu của người Bách Bộc. Bản đồ
dưới đây cho thấy địa bàn của những
người nói 169 thứ
tiếng Austroasiatic thời nay. Ta lưu ư rằng
người VN cũng nói tiếng Austroasiatic. Tóm lại,
mượn lời William Meacham [1], “Việt” không phải
là tên gọi một thứ người, một thứ
dân, một thứ tiếng, hay một nền văn hóa,
mà là tên gọi chung những người chưa theo
văn minh Hán ở miền nam TQ, cũng như thời
nay người phương tây gọi chung những
người gốc Phi là “người da đen” vậy
thôi. Sử sách ghi rằng rằng nhiều người
“Việt” có lắm điểm chung, cũng không có nghĩa
là số người đó với những người
“Việt” khác đều là một nhóm nói cùng thứ tiếng
hay có cùng h́nh dạng. And we need to continually remind ourselves that the word Yue does not,
so far as can be determined, imply any large anthropological structure,
ethnic affiliation, language family or cultural complex. Rather, it seems to
have been a catch-all word for “barbarians of the south” and is no more
precise anthropologically than the terms gui
lo (foreign devil) or “black” are today... The evidence from historical sources certainly suggests that many of the
people called Yue had a number of traits in common, but as mentioned above
the presence of some or all of these traits does not necessarily mean that
the group in question was of the same ethno-linguistic affiliation or even
the same physical type as other Yue peoples. Vậy khi
nói những điều na ná như
sau: ...đại tộc Bách Việt là giống dân xuất
hiện đầu tiên ở miền Đông Nam Á... hoặc như
vầy: ...chúng ta đại tộc Việt cũng thờ mặt
trời... là ngay từ
đầu đă hiểu sai cái định nói. Bây giờ
ta t́m hiểu Bách Việt theo một hướng khác. *** Haplogroup (viết tắt
“hg”) là ǵ sau này có dịp ta sẽ t́m hiểu thêm, nhưng ở
đây nói sơ sài như vầy: nếu tôi và bạn, hai
đực rựa, cùng mang vài cái single
nucleotide polymorphism (viết tắt “SNP”) trong “nhiễm sắc
thể” Y (Y chromosome) của ḿnh, th́ tôi và bạn chắc
chắn là con cháu của một ông đầu tiên mang mấy
cái SNP đó cách nay hàng vạn năm – v́ mấy cái SNP
đó luôn luôn truyền từ đời này sang đời
khác. Hết thảy những đực rựa mang mấy
SNP đó, kể luôn cái ông đầu tiên, đều thuộc
về một hg, dù không phải là những người
cùng một sắc dân. C̣n làm sao biết tôi và bạn mang
SNP nào th́ chỉ có cách trả tiền cho một công ty
để họ test DNA cho ḿnh (tất nhiên phần ai nấy
trả). Chừng 80% đực rựa
đang sống ở Đông Á và Đông nam Á bây giờ là
thuộc về hg O, ra đời
lối 35 ngàn năm trước. H́nh dưới đây
[7] vẽ một khúc của hg O coi cho biết. Người đầu tiên
trong hg O là một ông mang những SNP có tên M175, P186, P191,
P196 (chưa kể những SNP khác mà ổng thừa hưởng
của tổ tiên). Con cháu của ổng có một
đực rựa mang thêm MSY2.2, đó là người đầu
tiên trong hg O1. Con cháu của ổng có một
đực rựa khác mang thêm L463, L690, P31, M268, đó là
người đầu tiên trong hg O2. Con cháu của ổng c̣n có một
đực rựa khác mang thêm M122, P168, đó là người
đầu tiên trong hg O3. Đám con cháu “đích tôn” của
ổng, không có mang thêm SNP nào khác hoặc chưa thấy có
mang thêm SNP nào khác, tức là không phải O1, không phải
O2, cũng không phải O3, th́ thuộc về hg O*. Thí dụ bạn test DNA và
được biết ḿnh mang PK4 (hg O2a), có thể bạn
c̣n mang thêm M95 (hg O2a1) mà nếu test kỹ hơn sẽ thấy,
nhưng bạn phải chi thêm tiền. Nếu bạn mang M95, chắc
chắn bạn cũng mang PK4, chắc chắn bạn cũng
mang L463, L690, P31, M268,… và nói bạn thuộc về hg O2a1 cũng
trúng, thuộc về hg O2a cũng trúng, thuộc về O2 cũng
hổng sai. Tạm ngưng bài học vỡ
ḷng ở đây, ta làm bài tập đầu tiên. Đó là,
người Bách Việt không c̣n trên đời, làm sao test
DNA cho họ? Ta phải đi t́m dấu vết
của họ. Nào ta suy nghĩ chút xíu. Người Bách Việt có lẽ
không chết hết, mà đă assimilate vào sắc dân Hán ở
miền nam TQ, tức là đă trở thành người Hán
sau hàng ngàn năm sống chung với người Hán. Bên
ngoài th́ họ là người Hán, nhưng bên trong họ vẫn
mang SNP của họ chứ không phải mang SNP của
đực rựa Hán. Như vậy, mỗi nhóm người
Hán ở miền nam TQ bây giờ đều có vài đám
“Hán” và vài đám “không-phải-Hán”. Những đám không-phải-Hán đó có lẽ là con
cháu của những đám người Bách Việt xưa
trước khi họ assimilate vào sắc dân Hán. Cho nên, ta sẽ đi t́m dấu
vết Bách Việt trong những nhóm người Hán ở
miền nam TQ bây giờ. Ta bắt đầu xem vài số
liệu DNA của người Hán đă được
công bố, và nhớ rằng số liệu của những
tác giả khác nhau th́ cũng có thể khác nhau chút xíu. Bảng 1: Shi Yan et al [8]
Ghi chú: “1.2” là phần trăm số
người Hán miền đông TQ thuộc hg O1a*-M119,… Đông: Giang Tô, An Huy, Triết Giang,
Thượng Hải. Bắc, Nam: trên, dưới đường
nối rặng Tần Lĩnh với sông Hoài. Bảng 1 cho thấy sắc
dân Hán gồm 23 đám người khác nhau trong đó
hơn bốn phần năm thuộc về hg O-M175 và gần
một phần năm thuộc về những hg rất
xưa thí dụ C-M130 mà ta sẽ bỏ qua:
Hơn nửa số người
lấy mẫu thuộc về hg O3-M122, trong đó đông
nhứt là 3 đám O3a1c-JST002611, O3a2c1*-M134 và O3a2c1a-M117. C̣n lại là những đám
thuộc về O1-MSY2.2 và
O2-P31, trong
đó đông nhứt là
O1a-M119 mà cũng rất
đông trong những nhóm Hán ở đông nam TQ. Bảng 2: trích Tatiana Karafet
et al [9].
Ghi chú: “4.3” là phần
trăm người VN thuộc hg C3-M217,… Bảng 2 khác bảng 1 chút
xíu, cho thấy sắc dân Hán gồm 20 đám người
khác nhau nhưng trong đó cũng hơn bốn phần
năm thuộc về hg O-M175 và gần một phần
năm thuộc về những hg rất xưa thí dụ
C-M130 mà ta sẽ bỏ qua:
Hơn nửa số người
Hán lấy mẫu cũng thuộc về hg O3-M122, trong đó đông nhứt
là 2 đám O3a1c-JST002611 và O3a2c1-M134. C̣n lại là những đám
thuộc về O1-MSY2.2 và
O2-P31, trong
đó đông nhứt là
O1a-M119 và O2a1-M95. Từ bảng 1 và 2 ta rút ra: Cốt lơi của sắc dân Hán là hai
đám người O3a1c-JST002611 và O3a2c1-M134. Bây giờ ta xem số liệu
của những nhóm thiểu số ở miền nam TQ. Bảng 3: trích Dongna Li et al
[10]
Ghi chú: Gelong, Gelao,
Hlai (Li), Bouyei, Kam, Sui, Zhuang là những nhóm nói tiếng
Tai-Kadai; Hmong và Bunu (Yao) nói tiếng Hmong-Mien; Atayal, Paiwan
(hai nhóm Gaoshan ở Đài Loan) nói tiếng Austronesian. “5.1” là phần
trăm người Gelong thuộc hg C-M130,... Bảng 3 cho thấy những
nhóm thiểu số ở nam TQ gồm nhiều đám
người khác nhau trong đó hơn bốn phần
năm thuộc về hg O-M175 và dưới một phần
năm thuộc về những hg rất xưa thí dụ
C-M130 mà ta sẽ bỏ qua:
Trừ ra gần một phần
năm là người gốc Hán O3-M122 đă đến ở chung rồi
assimilate vào những nhóm đó, hơn hai phần ba c̣n lại
thuộc về O1-MSY2.2 và
O2-P31 trong đó đông nhứt là hai đám O1a*-M119 và O2a1*-M95. Ta xem thêm số liệu của
nhiều nhóm người trong một vùng bao la từ miền
nam TQ xuống tới Indonesia. Bảng 4: trích Hong Shi et al
[11]
Ghi chú: “53.72” là phần
trăm số người Hán miền nam TQ nói tiếng
Sinitic thuộc về O3-M122, “48.81” là phần trăm số
người nói tiếng Tibeto-Burman thuộc về hg C-M130,... Để
dễ xem, ta làm lại bảng 4 với những thông số
mới dưới đây: A =
Hán/không-phải-Hán = M122/(M119+M95) B = không-phải-Hán/Hán
= (M119+M95)/M122 C =
M119/(M119+M95) D = M95/(M119+M95)
Thông số
A cho thấy đám Hán O3-M122 là cốt lơi của 3 nhóm nói
những thứ tiếng Sinitic, Tibeto-Burman
và Hmong-Mien. Thông số
B cho thấy 2 đám không-phải-Hán O1a-M119 và O2a1-M95 là cốt
lơi của 3 nhóm nói những thứ tiếng Daic (Tai-Kadai), Austroasiatic và Austronesian. Từ bảng
1, 2, 3 và 4 ta rút ra: Hai đám O1a-M119 và O2a1-M95 ở miền
nam TQ là cốt lơi của những nhóm gọi chung là Bộc-Việt
trước khi họ assimilate vào sắc dân Hán. Phần lớn số người trong những
nhóm thiểu số nói tiếng Tai-Kadai và Austroasiatic ở
miền nam TQ bây giờ có lẽ là con cháu (descendants) của
phần lớn số người trong những nhóm Bộc-Việt. Thông số
C gợi ư rằng: Có lẽ đám O1a-M119 ban đầu nói 1
thứ tiếng xưa mà sau này từ đó tách ra hai thứ
tiếng Tai-kadai và Austronesian. Thông số
D gợi ư rằng: Có lẽ đám O2a1-M95 nói tiếng Austroasiatic từ xưa tới giờ. Ngoài ra, những
nhóm nói tiếng Tibeto-Burman, với thông số A rất lớn,
thí dụ Qiang (Khương), th́ không dính dáng Bộc-Việt
mà là bà con với người Hán [3]: Sử liệu TQ cho thấy người nhà Hạ là một
phần của người Khương. Viêm Đế cũng
từ Khương mà ra. Tức là người nhà Viêm
Đế, người nhà Hoàng Đế, người nhà
Hạ và người nhà Chu đều là người
Khương. Sau khi lần lượt tới đồng
bằng TQ họ hợp lại thành nhóm Hoa Hạ, tạo
ra văn hóa Ngưỡng Thiều ở khúc giữa sông
Hoàng Hà. Những
nhóm nói tiếng Hmong-Mien cũng không dính dáng Bộc-Việt
mà là một nhóm Hán tách ra ở riêng v́ lư do nào đó, theo Lee
[12]: There are also many religious and cultural similarities between the
Chinese and the Hmong which suggest that the Hmong have always been in close
contact with the Chinese, rather than any other people. Hmong stories and
funeral rituals often mention the Chinese but no other peoples, with one folk
story even saying that the ancestors of the Hmong and the Han Chinese were
once two brothers worshipping at the same ancestral grave but parted company
due to conflict over properties. Đó là hết
thảy những ǵ ta có thể suy đoán, ngoài ra, ta không
thể nào biết có bao nhiêu nhóm Việt hay bao nhiêu nhóm Bộc,
và một nhóm nào đó thí dụ Lạc Việt có bao nhiêu
người thuộc về O1a-M119, bao nhiêu người
thuộc về O2a1-M95. Nói cách khác: Lạc Việt là một ư
niệm không bao giờ có thể chứng thực. Bây giờ
tới người VN. Xem lại bảng 2 ta thấy
sắc dân VN gồm 18 đám người khác nhau trong
đó gần bốn phần năm thuộc về hg
O-M175 và hơn một phần năm thuộc về những
hg khác thí dụ C-M130 mà ta sẽ bỏ qua:
Trừ ra
hai đám Hán khá đông đă assimilate vô sắc dân VN là
O3a2c1-M134 và O3a1c-JST002611, đám đông nhứt c̣n lại
là O2a1a-M88 chiếm 20% số người lấy mẫu. Bảng 5: Jun-Dong He et al [13].
Ghi chú: “1.7” là phần
trăm người Chàm thuộc về C*-M216,… Bảng 2 cho thấy sắc
dân VN gồm 12 đám người khác nhau trong đó
hơn bốn phần năm thuộc về hg O-M175 và
dưới một phần năm thuộc về những
hg khác thí dụ C-M130 mà ta sẽ bỏ qua:
Trừ ra hơn một phần
ba là người Hán đă assimilate vô sắc dân VN trong
đó đông nhứt là O3a2-P201, đám
đông nhứt c̣n lại cũng là O2a1a-M88 chiếm chừng
một phần ba số người lấy mẫu. Với cái lơi O2a1a-M88,
người VN khác hẳn ba nhóm hàng xóm là Chàm, Lào và Thái
(Chàm và Lào đông O2a1-M95 hơn, Thái đông O1a1*-P203.1 và
O2a1*-M95 hơn). Bảng 2 và 5 cho thấy
trong sắc dân VN không có mặt O1a*-M119 nhưng có mặt
hai đám O2a1-M95 và O1a1-P203.1 (một nhánh của O1a-M119). Phải chăng đó là
con cháu của Bộc-Việt? Muốn biết, cần
xem thêm hai đám đó sinh ra ở đâu. Thí dụ hai đám đó
sinh ra tại chỗ ở miền nam TQ, có lẽ họ
đúng là tổ tiên của hơn 15% đực rựa
người VN bây giờ; và nếu bạn là một
người trong số đó th́ hăy sửa soạn nhận
cái tin vui rằng bạn là anh em với những gă người
Bouyei hoặc người Zhuang nào đó bên TQ. Nhưng trước khi mở
tiệc ăn mừng, bạn hăy lưu ư rằng người
miền tây Indonesia cách VN vài ngàn cây số cũng có 3
đám đông O1a*-M119, O1a1-P203.1
và O2a1-M95 lần lượt chiếm chừng 11%, 16% và 44%
số người lấy mẫu (bảng 2). Ủa, người Bộc-Việt
trên Quảng Đông kéo hết xuống đảo Bali xa vậy
làm ǵ? Làm ǵ chăng nữa, v́
sao họ đi ngang VN mà đám O1a*-M119 không chịu ở
lại lấy một mống? Ta xem lại bảng 4. Bảng 4 cho thấy
O1a-M119 và O2a1-M95 là hai đám có mặt khắp nơi trong một
vùng bao la từ nam TQ xuống Đông nam Á. Bạn c̣n nhớ
ta đă lưu ư rằng những nhóm thiểu số ở
miền trung VN và những nhóm Bách Việt ở nam TQ dù
cách nhau hàng ngàn cây số vẫn có chung “văn hóa Việt”
và những tục lệ khác. Điều đó ngầm
nói rằng: Có lẽ hai đám O1a-M119 và O2a1-M95 đă sinh
ra ở chính giữa cái vùng bao la đó, tức là một
nơi nào quanh biên giới Việt-Lào bây giờ, ngang miền
trung VN, rồi từ đó họ lan ra khắp nơi, lên
phía trên tới miền bắc VN và nam TQ, xuống phía
dưới tới Indonesia. Số người đến
miền nam TQ th́ được gọi là Bộc-Việt
vào đời Tần-Hán (225BC – 221AD). Rồi họ cứ ở
đó, cho đến một lúc nào đó th́ trao cuốn
sách lịch sử của họ cho những Bouyei, những
Shui, những Bulang,… viết tiếp. Như vậy đám
O2a1-M95 ở VN không phải là con cháu của Bộc-Việt
sau nay từ TQ đi xuống mà là con cháu của đám
O2a1-M95 ban đầu từ giữa bán đảo Đông
dương đi lên. C̣n đám O1a1-P203.1 th́ có lẽ
đă qua VN sau này như một
đám Hán đi theo mấy đám Hán khác thí dụ
O3a2c1-M134. Câu chuyện của hai
đám O1a-M119 và O2a1-M95 c̣n dài, ta sẽ kể nốt nếu
có dịp. Tiếc là ta chưa có số
liệu DNA của những nhóm thiểu số nói tiếng
Tai-Kadai bên phía VN thí dụ Thái, Tày,… nhưng hẳn là họ
cũng gồm hai đám đông nhứt là O1a-M119 và O2a1-M95
mà thôi. Từ bảng
2 và 5 ta rút ra: Cốt lơi của người VN là đám
O2a1a-M88. Người VN không có bà con ǵ với nhóm Bộc-Việt
ở miền nam TQ. Trước
khi kết thúc, nói rằng “người Việt Nam bây giờ
tức là người Lạc Việt thuở xưa” th́
không phải đúng cũng chẳng phải sai, nhưng
mà không có nghĩa ǵ hết. Vậy mới
ví Bách Việt như một chỗ mù sương. *** [2] Tai and Chuang
in Yunnan Province: The Analysis from Fieldwork [7] International Society of Genetic Genealogy (2012).
Y-DNA Haplogroup Tree 2012, Version: 7.48, Date: 19-Aug-2012,
http://www.isogg.org/tree/ [Date of access: Day, Month, Year]. [9] Major
East-West Division Underlies Y Chromosome Stratification Across Indonesia [10] Genetic origin of Kadai-speaking
Gelong people on Hainan island viewed from Y chromosomes [11] Y-Chromosome
Evidence of Southern Origin of the East Asian–Specific Haplogroup O3-M122 [12] Diaspora and the Predicament
of Origins: Interrogating Hmong Postcolonial History and Identity [13] Patrilineal
Perspective on the Austronesian Diffusion in Mainland Southeast Asia |
|