Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ] [ Trang Chủ ]
ÐÀO ÐỨC CHƯƠNG |
Các
tỉnh miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, đâu đâu
cũng biết chơi bài chòi. Nhưng nhiều nhất là ở Bình Ðịnh,
có thể nói, đây là cái nôi của trò chơi lý thú này. Cứ
vào dịp Tết Nguyên đán, khắp miền quê, hội bài chòi được
tổ chức trong khoảng thời gian dựng nêu, tức từ 30 tháng
chạp đến mồn 7 Tết. Ðôi khi cuộc chơi kéo dài đến rằm
tháng giêng âm lịch, tức từ Tết Nguyên đán đến Tết Thượng
nguyên.
Vùng
đất Vijaya trở thành lãnh thổ Việt Nam từ năm 1471, dân
các tỉnh phía Bắc vào định cư còn thưa thớt, nơi đây
rừng núi rậm rạp đan xen với chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp,
việc trồng tỉa thường bị tàn phá bởi thú hoang. Trên những
vạt đất khai khẩn, phải dựng nhiều chòi có người canh
giữ, bảo vệ hoa màu. Ðể được an toàn, các chòi phải
vững chắc, sàn cao quá tầm tấn công của mãnh thú và bố
trí theo hình vuông, chữ nhật, hay hình thuẫn tùy theo địa
hình để tiện thanh viện cho nhau. Trên mỗi chòi đều có
thanh la, mõ, trống; khi thú rừng kéo đến, các âm thanh đồng
loạt nổi lên rung chuyển cả rừng núi, dã thú dù gan lì
đến đâu cũng phải khiếp sợ bỏ chạy và không dám bén
mảng đến phá phách. Rồi có những đêm trăng thanh gió mát,
đối cảnh sinh tình, giữa các chòi người ta dùng loa nói
chuyện hay ca hát đối đáp nhau cho giải buồn, dần dần trở
thành một mô hình sinh hoạt văn nghệ ở vùng nương rẫy.
Theo
truyền thuyết, do nhiều nghệ nhân của tỉnh nhà, đơn cử
như cụ Phan Ðình Lang tức là nghệ sĩ Bốn Trang, sinh năm
1910, người xã Nhơn Thành huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh,
kể lại rằng lúc cụ còn trẻ đã từng nghe ông nội, ông
thân và nhiều bô lão truyền lại là chính Ðào Duy Từ (1572-1634),
người Thanh Hóa vào lập nghiệp ở Bình Ðịnh, đã dựa theo
mô hình văn nghệ ở các chòi canh miền núi mà sáng lập ra
hội bài chòi. Ðáp ứng trình độ thưởng thức văn nghệ
dân gian ngày càng cao, đến thế kỷ 20 người ta lập ra điệu
hò để nâng cao nghệ thuật của bộ môn này. Ðiệu bài chòi
theo nhịp hai, nên loại thơ lục bát, những bài vè và nói
lối bốn chữ rất thích hợp với điệu bộ này. Người
hô phải theo nhịp trống, nhịp sanh, có tiếng đàn tiếng
kèn đệm theo, làm cho điệu hò thêm réo rắt, hấp dẫn. Người
hô với chức năng quản trò, được gọi là "Hiệu". Tùy theo
tuổi tác và giới tính, người ta gọi là "anh Hiệu", "chú
Hiệu", hay "cô Hiệu", người này phải rành các điệu hát
nam, hát khách, hát lý... thuộc nhiều thơ và ca dao, biết pha
trò đồng thời ứng đối nhanh nhẹn.
Vậy
bài chòi là lối đánh bài mà người chơi ngồi trên 9 cái
chòi cất sẵn. Có nơi, để giản tiện người chơi bài ngồi
trên ghế thay chòi, nên gọi là bài chòi ghế. Nhưng cả hai
lối chơi bài này không có tính cách sát phạt, đỏ đen, mà
chỉ nặng tính văn nghệ.
Làng
xã nào muốn tổ chức cuộc chơi bài phải tìm đến những
gánh bài chòi nổi tiếng mới lôi cuốn được đông người
tham gia và có thể kéo dài trong nhiều ngày. Vào thập niên
1930, ở vùng An Nhơn và Tuy Phước có gánh bài chòi Sáu Cóc
được nhiều người hâm mộ hơn cả. Trong tỉnh có nhiều
cô, chú Hiệu tài hoa, đến nay còn truyền tụng, như các chú
Bùng, Ðốc, Kim, Kích, Miệt, Ngô Quang Thắng, Tuấn Phong, Tư
Liên... và các cô Ðạm, Hương, Liễu, Nhảy...
Một
gánh bài chòi có ban hô bài gồm một Hiệu chính và một hoặc
hai Hiệu phụ, trong đó có đủ nam nữ thì diễn xuất mới
linh hoạt. Ban nhạc thường chỉ gồm bốn người: một đàn
cò, một kèn, một sanh, một trống chiến (nhỏ hơn trống
chầu và lớn hơn trống tum, có dây mang trước ngực khi di
chuyển).
Nơi
tổ chức bài chòi thường ở sân đình, sân chùa hay sân chợ.
Nói chung, nơi có khoảng đất trống bằng phẳng. Người ta
cất 9 chòi, xếp chung quanh hình chữ nhật, mặt quay vào sân
chơi. Tám chòi nằm dọc theo hai cạnh hình chữ nhật, mỗi
bên bốn chòi, đối diện tương ứng nhau từng cặp một.
Chòi trung ương ở giữa cạnh nắn hình chữ nhật. Cạnh bên
kia, đối diện với chòi trung ương, là rạp hội đồng, dành
cho ban tổ chức. Khoảng đất trống ở giữa là sân khấu
trệt, có bốn mặt dành cho Hiệu; rạp và các chòi đều quay
mặt vào sân này. Chòi được cất theo kiểu nhà sàn, trang
hoàng đẹp đẽ, nền sàn cao quá đầu người, có thang lên
xuống. Mái chòi lợp tranh hay lá dừa để che mưa nắng. Mặt
sau và hai hông chòi che kín, chỉ chừa trống mặt trước.
Mỗi chòi chứa được 4 hoặc 5 người. Trong chòi có một
cái mõ và một khúc thân cây chuối hay bó rơm để người
chơi găm con bài và cờ đuôi nheo. Chòi trung ương, lớn hơn
cái chòi thường một ít, dùng trống thay mõ và dành riêng
cho các vị có chức tước hay có uy tín trong làng muốn tham
gia cuộc chơi, cũng có thể dành cho cặp vợ chồng mới cưới.
Những khi không có khách đặc biệt thì người dân thường
vẫn có thể ngồi chòi này.
Rạp ban tổ chức cũng có mái che mưa nắng, trang hoàng đẹp
đẽ hơn. Các cột được bó lá ngâu hay lá đùng đình để
tăng thêm vẻ trang trọng. Trong rạp kê một bộ phản ngựa
rộng dành cho các hương chức và quan khách có địa vị ngồi.
Ðầu phản đặt một cái trống chầu dùng làm trống lệnh
để ban tổ chức điều khiển cuộc chơi. Bên cạnh bộ phản
có đặt hàng ghế cho ban nhạc của gánh bài chòi ngồi hòa
âm.
Trong sân, trước rạp, chỗ Hiệu đứng hô bài, có đặt ống
đựng bài. Ống bài là một khúc tre lớn, rỗng ruột, cắm
lỏng trên một cái cột cố định để ống bài có thể lúc
lắc được. Trong ống đựng 27 thẻ bài. Ðầu nằm trong ống,
chân thẻ nhô ra ngoài và đật cao quá tầm mắt.
Con bài làm bằng tre, đầu trên bè ra để dán lá bài lấy
trong bộ bài tới. Ðầu dưới là chân thẻ nhỏ tròn như
chiếc đũa, vót nhọn. Các chân bài nhuộm nửa xanh nửa đỏ,
giống hệt nhau để không phân biệt được.
Bộ thẻ bài chòi gồm 27 cặp, có tên như sau:
Pho
VĂN: Nhất Gối, Nhì Bánh, Ba Bụng, Tứ Tượng, Ngũ Rốn, Sáu
Xưởng, Bảy Liễu, Tám Miểng, Chín Cu.
Pho
VẠN : Nhất Trò, Nhì Bí, Tam Quăng, Tứ Ghế, Ngũ Trượt, Lục
Trạng, Thất Vung, Bát Bồng, Cửu Chùa.
Trên mỗi con bài không ghi tên con bài, chỉ vẽ hình như kiểu siêu thực, bằng mực đen, làm ký hiệu riêng cho mỗi con bài. Ðôi khi người ta rút 3 cặp bài bất kỳ, mỗi pho rút một cặp, thế vào đó 3 cặp Yêu, màu đỏ, có tên là Lão, Thang, Chi. Nếu Lão thì gọi Ông Ầm, Thang gọi là Thái Tử và Chi gọi là Bạch Huê. Miễn sao bộ thẻ bài chòi vẫn giữ y số ấn định là 27 cặp, chia đều mỗi pho 9 cặp. Ngoài 27 thẻ bài bỏ vào ống, còn 27 con bài cũng y như vậy, đem dán vào thẻ lớn. Cú 3 con bất kỳ dán chung vào một thẻ. Có 9 thẻ phát mỗi chòi một thẻ, nên thẻ lớn còn gọi là thẻ chòi. Cũng có nơi không dán chung 3 con bài vào một thẻ lớn mà vẫn dùng 27 thẻ nhỏ, y như 27 thẻ bài đã dùng trong ống để phân phát cho 9 chòi, mỗi chòi 3 thẻ bài. Như vậy, cả hai cách, mỗi bộ bài chòi phải có 27 cặp như đã kể trên, chia làm hai phần y nhau về số lượng và tên con bài. Một phần bỏ vào ống bài để cho Hiệu bốc thăm, một phần đem phân phát cho 9 chòi. Trong bài chòi, tên con bài đôi khi được gọi khác. Như trong pho Văn: Nhất Gối thì gọi là Chín Gối, Nhì Bánh tức là Hai Bánh rồi đảo ngược gọi là Bánh Hai, Ngũ Rốn gọi trại Ngũ Rún hay gọi khác là Ngũ Ruột, Tám Miểng gọi trại là Tám Miếu. Trong pho VẠN: Tứ Ghế còn gọi là Tứ Móc hoặc Tứ Cẳng, Ngũ Trượt là Ngũ Trật hay Ngũ Trợt, Lục Trạng gọi là Lục Chạng. Trong pho SÁCH: Tứ Sách gọi là Tứ Gióng, Ngũ Dụm thành Ngũ Dít, Bảy Thưa là Bảy Hột. |
Một hội bài chòi, ngoài số người đến đánh bài và thân
nhân của họ, còn có số người đến xem, có thể lên đến
vài trăm người. Một đám hát trống, người xem thường có
mặt từ lúc dạo tuồng đến khi vãn tuồng. Nhưng ở bài
chòi, người xem có thể đến rồi ra về bất cứ lúc nào
tùy thích, và không có lệ bán vé vào xem.
Muốn đánh bài chòi người ta phải báo cho ban tổ chức biết
để sắp xếp ở hội kế tiếp. Người đến xem không cần
xin phép ai cả, cú chen vào đứng dọc theo các chòi và rạp,
làm thành một vòng bao quanh sân khấu. Mỗi ngày cuộc chơi
kéo dài từ sáng tới khuya. Giờ ăn chỉ nghỉ ngơi chốc lát.
Ở đám bài chòi, lúc nào cũng có tiếng kèn trống, âm thanh
rộn rã vang xa, lôi cuốn thúc dục:
Trống chầu một hồi ba tiếng rống lên, giàn nhạc tiếp
theo phụ họa, cuộc chơi bắt đầu. Những người tham gia
leo ngồi trên chòi, do ban tổ chức sắp xếp. Người đánh
bài có thể rủ bạn bè, thân nhân hay người tình lên ngồi
trong chòi của mình. Ban Hiệu ra sân, thường thì một
nam một nữ, nếu thêm một người nữa để thay bài thì càng
tốt. Hiệu hô bài mặc áo dài đen, đội khăn đóng, thắt
dây lưng đỏ, mặt đánh phấn thoa son, có khi hóa trang như
là đào kép hát bội. Hiệu bưng khay đến từng chòi thu tiền
và phát bài. Người ngồi trên chòi nhận bài, đem găm ở
khúc chuối hay bó rơm để sẵng trên chòi. Phát bài xong, Hiệu
đến trước rạp vái chào ban tổ chức rồi hô lớn: "Phát
bài đã đủ cho Hiệu tính tiền". Người điều khiển cho
cuộc chơi đáp lại bằng ba tiếng trống chầu. Hiệu cúi
đầu: "Dạ!"
Trống
lệnh đã cho phép. Hiệu hai tay ôm lấy ống đựng thẻ lắc
mạnh nhiều lần. Khi các con bài đã trộn lẫn vào nhau, Hiệu
vói tay rút một con bài. Mọi người hồi hộp chờ đợi tên
con bài đang nằm trong tay Hiệu. Lúc ấy tiếng trống chầu
thúc liên hồi, dàn nhạc cũng dồn dập tưng bừng, kích thích
lòng mong đợi của mọi người. Nhưng Hiệu chưa vội đọc
tên con bài. Anh ta múa may, vái chào mọi người rồi mới cất
giọng hô điệu bài chòi bằng hai câu thơ hay cả bài lục
bát tùy thích. Có điều câu cuối bao giờ cũng có chữ chỉ
định tên con bài vừa mới rút được. Chẳng hạn tên con
bài
là Ngũ Trượt thì hô:
Tức thì chòi có bài trùng với con bài ấy đáp lại bằng
ba tiếng mõ "cốc, cốc, cốc!". Nếu là chòi trung ương trúng
thì đánh ba tiếng trống "tum tum tum!". Hiệu trao thẻ bài cho
người chạy bài đem đến chòi trúng. Con bài ấy được găm
vào khúc chuối cây hay bó rơm trên chòi. Hiệu lại tiếp tục
lắc ống rồi rút con bài khác. Và cũng theo thủ tục hô bài
như đã nói trên. Ban đầu trong ống có 27 thẻ bài, nhưng
bớt dần theo mỗi lần rút thẻ cho đến khi có một chòi
nào trúng được ba lần, tức là bài đã tới thì mới chấm
dứt ván bài. Khi Hiệu hô xong con bài, nếu có chòi trúng lần
thứ ba thì báo hiệu bài tới bằng một hồi mõ dài (chòi
trung ương thì báo một hồi trống tum), lúc ấy, ở rạp ban
tổ chức, một hồi trống chầu được gióng lên, báo hiệu
xong một ván bài.
Hiệu bưng khay tiền và một lá cờ đuôi nheo đến tận chòi
có bài tới. Cờ đuôi nheo còn gọi là cờ hiệu, có hình
tam giác vuông, màu đỏ bằng giấy. Trên cờ viết số thứ
tự ván bài, từ đệ nhất, đệ nhị đến đệ bát. Hiệu
đứng trước chòi có bài tới trịnh trọng thưa:
-Vâng
lệnh làng lãnh lấy khay tiền. Hiệu (tui) khẩn cấp điện
cờ Ðệ nhất.
Theo lệ, chòi có bài tới, muốn lịch sự phải thưởng tiền
cho Hiệu, nhiều ít là do tài diễn xuất của Hiệu. Vì thế,
khi dâng khay tiền, Hiệu phải trổ tài múa những động tác
đẹp mắt, miệng thì ngâm thơ, hát Nam, hát Khách. Nếu gặp
người tới có máu văn nghệ, hỏi đố bằng thơ, Hiệu cũng
phải biết đáp bằng thơ. Chẳng hạn như câu hỏi đố:
Nếu không lanh trí, có tài ứng đối, thuộc nhiều ca dao,
câu đố... Hiệu khó mà vượt qua nổi. Hiệu nhanh nhẩu đáp
ngay:
Hiệu vừa đáp xong, người chủ chòi trúng khoái quá, đổ
cả khay tiền xuống thưởng. Các chòi thua cuộc, chẳng buồn
việc ăn thua, vẫn ném tiền xuống thưởng tài nghệ của
Hiệu, người đứng xem cũng hùa theo, vãi tiền vào sân như
bươm bướm lượn. Màn thưởng thức xem chừng đã mãn. Trống
chầu của ban tổ chức vang lên một hồi ba tiếng, báo hiệu
cuộc chơi cho ván kế tiếp. Người chạy bài đi thu con bài
ở các chòi đem bỏ vào ống thăm chuẩn bị. Người xem chỉ
cần nhìn cây cờ đuôi nheo cắm ở chòi trúng có đề số
thứ tự thì biết hội bài này đã chơi đến ván thứ mấy.
Thời gian cho một ván bài không chừng, tùy sự may rủi của
việc bốc bài. Nhanh nhất, bốc ba lần đã thấy bài tới.
Còn chậm nhất phải bốc đến lần thứ 19. Ngoài ra còn tùy
thuộc vào việc hô bài của Hiệu. Nếu hô những bài dài
thì chiếm nhiều thời gian. Vì vậy Hiệu thường hô những
câu thai chỉ có hai hoặc bốn câu lục bát. Thỉnh thoảng
mới chen một bài dài hoặc bài có tính hài hước để thay
đổi không khí, tránh sự nhàm chán. Chẳng hạn như câu thai
của con bài Bạch Huệ chọc cười dưới đây:
Những câu thai thường có sẵn, Hiệu phải thuộc lòng hàng
trăm câu. Cũng có khi Hiệu phải sáng tác hoặc chắp nối,
ráp câu nọ với câu kia, miễn sao câu thai nói lên được
tên con bài Hiệu vừa mới bốc. Ðể tăng sự hấp dẫn, khi
hô Hiệu phải diễn tả bằng điệu bộ, nét mặt, giọng
nói như một diễn viên hát bội rành nghề. Nội dung câu thai
cũng luôn thay đổi. Chẳng hạn ván thứ nhất, gặp con bài
Nhì Nghèo, Hiệu hô:
Cha mẹ anh nghèo chẳng cưới được em!" Ván
thứ hai, nếu gặp lại con bài đó, Hiệu hô câu thai có nội
dung khác:
Vận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo". Ván
thứ ba Hiệu đổi khác:
Nhiều giàu thì lại chết trân thằng nghèo". Ván
thứ tư lại khác:
Chỉ sợ anh nghèo anh bán em đi". Ván
thứ năm khác nữa:
Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo" Ván
thứ sáu, vẫn còn nhiều câu khác nữa:
Ðêm nằm không chiếu lấy rơm làm giường Dù dơi, dép bướm chật đường Màn loan gối phượng ai thương thằng nghèo" Ngoài
ra tên con bài cũng được gọi trại đi hoặc đổi khác để
ứng vào một câu thơ hoặc câu ca dao nào đó.
Gọi khác chữ, chẳng hạn Bảy Thưa thành Bảy Hột. Gặp
cái bài này, Hiệu xử dụng một trong hai câu thơ sau đây
làm câu thai:
Anh về thưa với cha mẹ mang rượu nồng đón em". hoặc:
Hết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ Gặm xơ rồi lại gặm cùi Có ba bảy hột để lùi cho con".
Nói trại, chẳng hạn Ngũ Rốn thành Ngũ Rún rồi thành Ngũ
Ruột:
hay:
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ". Suy
diễn, từ Ngũ Dụm thành Ngũ Dít:
Ba cây dụm lại thành hòn núi cao". Có
khi dùng câu đố làm câu thai. Trường hợp này thì nội dung
của câu đố đã diễn tả tên con bài nên câu chót không
cần phải trùng chữ với tên con bài nữa. Chẳng hạn gặp
con bài Ba Gà, Hiệu có thể hô câu thai:
Ngày ba bốn vợ tối nằm riêng một mình" Có
trường hợp không cần nêu tên con bài mà chỉ giải nghĩa
đầy đủ là được. Gặp con bài Thái Tử, có thể dùng câu:
Hay thuyền ông Lữ đợi chờ con vua". Ðôi
khi Hiệu dùng câu thai hình tượng để suy diễn ý nghĩa con
bài Tứ Cẳng (còn gọi là Tứ Ghế hay Tứ Móc):
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người". Thỉnh
thoảng còn dùng những câu thai mơ hồ, người xem khó đoán
được tên con bài Nhì Bánh mà Hiệu đang nắm trong tay:
Sao trời lại nỡ xé hai thế này Có sao hôm mà chẳng có sao mai Hai đàng hai đứa tình phai hoa tàn". Cũng
có lúc, cả bốn câu đều nhắc đến tên con bài. Gặp con
bài Chín Cu thì câu thai sau đây điển hình cho trường hợp
này:
Cu ăn, cu lớn, cu gù, cu bay Cu say mũ cả áo dài Cu chê nhà khó phụ hoài duyên anh!" Còn
như gặp những câu thai nêu trọn vẹn tên con bài thì Hiệu
không bao giờ bỏ qua cơ hội. Chẳng hạn như con bài Ba Bụng
mà dùng câu thai sau đây thì tuyệt:
Ba người ba bụng không ai thời giống ai".
Khi bài tới ván thứ tám thì xong một hội. Lẽ ra phải chín
ván vì có chín chòi đóng tiền, nhưng phải dành tiền ván
thứ chín để ban tổ chức chi phí cuộc chơi và trả tiền
công cho gánh bài chòi. Vậy khi vãn một hội thì ban tổ chức
được một khoản tiền bằng số tiền cáp của một chòi,
và cứ xong một hội thì ít nhất cũng phải có một chòi
thua. Xong một hội, trống chầu vang lên một hồi rất dài.
Ban nhạc cũng tạm nghỉ giải lao, chuẩn bị cho hội khác.
Người đánh bài nếu muốn chơi tiếp thì vẫn ngồi trên
chòi của mình, bằng không thì xuống, để chòi trống cho
người khác lên thay.
|
Như đã nói trên, một bộ bài chòi có 27 con bài. Mỗi tên
con bài Hiệu phải dùng một câu thai và nội dung câu thai phải
luôn luôn thay đổi khi gặp lại con bài cũ.
1.-
Câu Thai Các Con Bài Trong Kho VĂN:
Nhất
Gối, nhưng thường gọi là Chín Gối:
Gối lụa không mềm bằng gối tay em". Nhì
Bánh:
Bánh in to hột, dện hoài đổ ra". Ba
Bụng:
Bụng sao bụng nhớ người dưng thế này". Tứ
Tượng:
Hay là ông tượng đạp rào ổng vô?" Ngũ
Ruột:
Mai dong điềm chỉ tới miền nhà em Cũng vì chai rượu gói nem Mà cha mẹ đã gả em đi rồi Còn gì than thở anh ơi Chỉ thêm đau ruột, em có chồng rồi, biết sao!" Sáu
Xướng:
Bây giờ nên xưởng nên nhà lại lơ". Bảy
Liễu: "Biết
đâu mà đợi mà chờ Tám Miểng: Võ thì đá khổng bể nổi miểng sành Nghe vua treo bảng cũng xòng xành ra thi Bảng đề không biết chữ chi Mài nghiên múa bút có khi hết ngày". Chín
Cu:
Mai dong, hứng nợ, rập cu, cầm chầu". 2.-
Câu Thai Các Con Bài Trong Kho Vạn:
Nhất
Trò:
Nhì
Bí:
Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh Em về Bình Ðịnh cùng anh Ðược ăn bí đỏ nấu canh nước dừa". Tam
Quăng:
Nghe em, chồng hỏi, giật mình quăng nghiên". Tứ
Móc:
Hai vai gánh nặng còn đèo móc cân". Ngũ
Trợt:
Chợ nào bằng chợ Gò Chàm Tôm tươi cá trụng thịt bò thịt heo Còn thêm bánh đúc bánh xèo Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u Những con cá chép cá thu Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon Ngó ra ngoài chợ Nẫu bán thịt phay Nem tươi chả lụa Rượu trà no say Ngó ra ngoài chợ Vẫn bán tranh cày Roi mây, lưỡi cuốc Nẫu bày nghinh ngang Ngó ra ngoài chợ Nẫu bán sàn sàn Khoai lang, bắp đỗ Ðục, chàng, kéo, dao... Xem ra chẳng sót hàng nào Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vào đây mua ... Lại còn những món bánh khô Xem đi xét lại nhiều đồ lắm thay Những còn hàng giép hàng giày Nón ngựa nón chóp bán rày liên thiên Lại còn những món nhiều tiền Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu thơm... Song thần An Thái Dừa trái Tam Quan Ðường cát Dương An Ðĩa bàn nội phủ Kể đủ hàng hoa... Cà dê, cà dĩa, cà chình Ơ¨t ngà, ớt bị, ớt sừng, ớt cay Rau răm, rau húng Bầu thúng, cà tây Mua bán bạc cây Những người hàng xén Mấy chú rón rén Ăn cắp thiệt lanh Mấy chú gian manh Là anh trùm chợ Buôn mọi bán rợ Mấy chú An Khê Ở trển đem về Xấp trần nài rể Dễ mua dễ bán Bánh tráng, kẹo cà Xoa xoa, đậu hũ Mè xửng , bánh canh Dạo hết xung quanh Hành ngò, cúc cải Dây dừa, dầu rái Kẹo đỗ, kẹo dừa Mấy chị ngủ trưa Nẫu mua trợt lớt". Cú ăn xó bếp, ngủ thì chuồng trâu Bậu ơi tôi chẳng ưng đâu Trạng gì như thế có hầu cũng uổng công". Thất
Vung:
Thấy bảy cô gái cùng chung một nhà". Bát
Bồng:
Ðể tôi lên xuống có con em bồng!" Cửu
Chùa:
Con sãi ở chùa phải quét lá đa". 3.-
Câu Thai Các Con Bài Trong Pho SÁCH:
Nhứt
Nọc:
Trải qua bãi hạc, gành nghê Quanh năm chèo chống, tứ bề sóng xô Tiếng ai văng vẳng gọi đò Mau mau nhổ nọc chèo qua đón người". Nhì
Nghèo:
Mình ơi, hãy nhớ hồi khi còn nghèo". Ba
Gà:
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau". Tứ
Sách:
Quạt nọ đưa đèn, đèn có đưa ai Trăm năm đá nát vàng phai Ðá nát mặc đá, vàng phai mặc vàng Trông cho én nhạn một lòng Lồng đèn thiếp xách, mâm tơ hồng chàng bưng". Ngũ
Dụm:
Ba cây dụm lại thành hòn núi cao". Sáu
Hường:
Thương nhau vàng võ, má hường kém tươi". Bảy
Thưa:
Ðừng ham người tốt mã mà thưa chuyện nhà" Tám
Dây:
Ðứt dây té xuống cũng theo tới cùng" Cửu
Ðiều:
Có lầu Thông Nhẫn lập đàn bán buôn Trước kia đường vắng hơn truông Bây giờ trong bán ngoài buôn đầy tràn Trong nhà dệt nhiễu thêu hàng Trong sân thợ nhuộm, ngoài đàng xe hơi Khen cho ông Nhẫn đủ đời Lụa hàng cấp giá nơi nơi cũng điều" 4.-
Câu Thai Các Con Bài Trong Cặp YÊU:
Ông
Ầm:
Thái
Tử:
Khăng khăng một lời: quân tử nhất ngôn". Bạch
Huê:
Sáng trăng câu hát huê tình mà theo" |
Hội bài chòi là một trò chơi dân gian, mang tính văn nghệ
quần chúng. Tiền thân của bài chòi là sự liên lạc nhau
giữa các chòi canh trên nương rẫy. Và bài chòi được hình
thành và hoàn chỉnh ở đồng bằng. Thể thức chơi vẫn giữ
nét độc đáo nguyên thủy, ngồi trên những chiếc chòi, nên
gọi là bài chòi truyền thống.
Bài chòi truyền thống cũng chia làm hai giai đoạn: Hiệu hô
những câu ca dao ngắn, nội dung không liên quan gì đến con
bài, miễn sao có chữ đồng âm với tên con bài là được;
thời kỳ này gọi là bài chòi tạp. Dần dần có xen nhiều
những câu thai do nghệ nhân đặt ra hoặc do Hiệu ứng chế
có nội dung ăn khớp với tên con bài, như câu Nhứt Nọc dưới
đây; thời kỳ này gọi là bài chòi câu.
"Tay cầm sào chống lái
Sau này vì sự giản tiện, có vài nơi phá lệ cất chòi vẫn
dùng 9 cái ghế thay cho 9 chiếc chòi và thể thức vẫn như
cũ. Khuyết điểm của bài chòi ghế là không thể thay thế
hết được chức năng của chòi nên kém phần sôi nổi, giảm
sự hào hứng của người chơi bài và cả người xem. Từ
hình thức bài chòi ghế, những năm đầu thế kỷ 20, có một
số nghệ nhân mạnh dạn tách khỏi mô hình truyền thống
để kiến tạo một lối mới gọi là bài chòi chiếu. Ðặc
tính của bài chòi này không phụ thuộc vào thời vụ. Nghĩa
là tổ chức lúc nào cũng được, không cần phải đợi dịp
Tết Nguyên Ðán. Bài chòi chiếu cũng không có chòi. Sân khấu
vẫn còn trệt nhưng đã được giới hạn trong phạm vi chiếu
rải. Bài chòi chiếu cũng không còn độc diễn của Hiệu
mà đã phân vai nhân vật (2 hay 3 diễn viên) nhưng còn đơn
giản, chủ yếu là giọng ca mùi mẫn diễn những lớp trong
các truyện tuồng như Lưu Kim Ðính, Phàn Lê Huê, Nguyệt Nga,
Lục Vân Tiên... Tuy vậy, sự trình diễn chỉ để giải trí
và nêu tên con bài ở những câu thơ cuối lớp, chứ chưa
đủ trình độ kết cấu nghệ thuật để trở thành mục
diễn, nên người ta gọi là bài chòi lớp.
Một biến cố lớn trong bộ môn bài chòi là sự ra đời của
bài chòi truyện. Vào giữa năm 1933, hai nghệ sĩ sáng lập
gồm Bốn Trang (tức Phan Ðình Lang người xã Nhơn Thành, An
Nhơn) và Ba Nhỏ (tức Ba Huợt người xã Cát Sơn, Phù Cát)
cùng với sự cộng tác của Tư Liên (Ðỗ Liên), Năm Oanh (Mỹ
Chánh, Phù Mỹ) và nhiều nghệ nhân khác; lần đầu tiên trình
diễn bài chòi truyện trên sân khấu sàn gỗ tại chợ An Lương
xã Mỹ Chánh huyện Phù Mỹ. Ðây là lần thử nghiệm, không
tránh khỏi nhiều trở ngại, nhưng nói chung vẫn gặt hái
những kết quả khích lệ. Bài chòi truyện hoàn toàn dứt
bỏ thể thức chơi bài truyền thống, mạnh dạn bước lên
sàn sân khấu có đầy đủ phông màn. Nghệ sĩ được chọn
sắm vai thích hợp với nhân vật, có hóa trang, có sự nhập
vai, diễn xuất các động tác theo qui luật ước lệ và cách
điệu. Làn điệu cũng phát triển để phù hợp tình cảm
của mỗi nhân vật. Ngoài điệu cố hữu là hô bài chòi và
điệu hát chủ đạo là Xuân Nữ (có sức gợi cảm), còn
có điệu cổ bản, nói lối, Hồ quảng, xàng xê, hát Nam,
hát Khách, tẩu mã, lý thượng... Về âm nhạc ngoài đờn
cò, kèn, sanh, trống còn có đàn nguyệt để tạo âm non âm
già phù hợp với làn điệu mới. Về trình diễn, diễn viên
có thể cương vài chi tiết nhưng không được đi quá xa hoặc
phản lại đề tài. Về y phục và đạo cụ cần sắm đủ
các loại để trang bị thích hợp từng nhân vật. Về ánh
sáng có trụ đèn lồng thắp dầu, về sau có đèn măng sông.
Dịp Tết Giáp Tuất (1934) gánh bài chòi của ông Bốn Trang
và Ba Nhỏ kiện toàn đội ngũ lập thành đoàn hát Tân Xuân
đến lưu diễn ở thị trấn Gò Bồi (phủ Tuy Phước). Nhờ
rút tỉa kinh nghiệm, lần này được khán giả đón nhận
nồng nhiệt và bán vé thu được một số tiền lớn.
Ðánh dấu sự thành công của gánh hát Tân Xuân, nhiều nghệ
nhân đầu tư vào việc lập gánh hát bài chòi chuyên nghiệp.
Ðoàn lớn thì diễn tuồng truyện trên sân khấu hiện đại,
đoàn cỡ trung thì diễn lớp trên sân khấu trệt trải chiếu,
đoàn nhỏ thì hô bài theo lối truyền thống trên sân đất.
Từ năm 1933 đến năm 1945 tỉnh Bình Ðịnh có trên 10 gánh
hát bài chòi nổi tiếng. Các đoàn hát như Tân Xuân của Bốn
Trang, Long Vân Bang của Tư Miệt, Ý Chung của Phan Ðình Chi
chuyên lưu diễn ở khắp các tỉnh từ Bình Ðịnh, Phú Yên,
Khánh Hòa, Phan Rang, Phan Thiết đến Di Linh (Lâm Ðồng). Các
đoàn khác như gánh Năm Oanh (An Lương, Phù Mỹ), gánh Ông Dần
(Hoài Nhơn), Chính Oanh (Kiến Hàng, An Nhơn), Sáu Sơn (Nhạn
Tháp, An Nhơn), Ông Lợi (Phước Nghĩa, Tuy Phước), gánh Ðồng
Ấu của Ðinh Thảo và Bốn Dân...
Ðội ngũ diễn viên của bộ môn bài chòi cũng khá hùng hậu,
không những nhiều kép nổi tiếng như Ba Huợt, Ba Sinh, Bốn
Que (tức Bốn Trang), Tư Liên, Tư Miệt, Năm Oanh, Mười Vạn,
Kim Kích... mà còn có nhiều khuôn mặt nữ tài hoa "một thời
vang bóng" như đào Nhảy và Dần (Hoài Nhơn), đào Trang và
Ðài (An Thái, An Nhơn), đào Sanh và Ðồng (Phước Sơn, Tuy
Phước), đào Bình (Phú Tài, Tuy Phước), đào Chung và Liệu
(Qui Nhơn), đào Giàu, Ba Danh... Lớp diễn viên mầm non có Văn
Bá, Ðinh Thị Bích Hải, Nguyễn Thị Hường, Lê Quí, Ðinh
Thái Sơn... đều phát triển tài năng trước tuổi. Về âm
nhạc cũng có những nghệ sĩ xuất thần như Tám Kèn (tức
Nguyễn Hoài Ân), Văn Bá Anh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ), Lưu Hạnh
(An Nhơn), Nguyễn Mới, Sáu Hoạch... Về kịch bản xuất hiện
nhiều tác giả soạn bài chòi truyện như: Trương Ân, Năm
Oanh, Sáu Cóc với những vở ca kịch nổi tiếng như Phạm
Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tam Hạ Nam Ðường, Lưu
Bình Dương Lễ, Quan Công Phục Huê Dung, Lý Ân Lang Châu...
Trong thời kỳ này ba thể hình bài chòi đều thịnh hành và
không cạnh tranh lấn áp nhau. Bài chòi truyện có một chỗ
đứng ở sân khấu phông màn, có rạp che chắn, lưu diễn
ở các thị tứ, người xem phải mua vé. Bài chòi lớp tìm
đất sống trên sân khấu chiếu khắp các làng mạc miền
quê. Bài chòi truyền thống vẫn nở rộ mỗi dịp xuân về.
Bản chất bài chòi là trò chơi bài của dân gian xen với ca
múa do tài anh Hiệu ứng chế đồng thời có sự cộng tác,
đối thoại một cách tự nhiên giữa người hô và người
tham gia cuộc chơi. Nếu đưa bài chòi lên sân khấu có phông
màn tức là xóa bỏ cuộc chơi, bài chòi truyện trở nên hụt
hẫng, cần bù đắp vào các điều kiện sau đây mới tạo
được không khí hấp dẫn: Sự tích truyện tuy có gay cấn
nhưng có hậu mới thỏa mãn người xem. Kịch bản cần cải
tiến mới tránh khỏi sự tẻ nhạt nhưng không làm đứt mạch
truyền thống, trong đó chất liệu bài chòi phải chiếm tỷ
lệ cao, nếu không sẽ bị đồng hóa với các môn nghệ thuật
khác, làm thất vọng khán giả.
Thời ấy có thành ngữ "gánh hát xà bần" để chỉ trích
những gánh bài chòi diễn trò hổ lốn đã đưa hát bội,
cải lương, chèo, Hồ quảng chen vào quá nửa. Ngoài ra bài
chòi truyện cần có đạo diễn thành thạo, tài diễn xuất
của nhân vật và giọng ca đúng điệu. Sau nữa, cách trang
trí, lối trang phục và sự điều chỉnh ánh sáng rất cần
thiết, làm nổi bật cảnh sắc trên sân khấu. Nhưng bài chòi
truyền thống, không cần những điều kiện trên, chỉ cần
một anh Hiệu tài hoa là đủ rối và tự nó đã đi vào lòng
dân tộc nên có sức lôi cuốn " Rủ nhau đi đánh bài chòi,
để cho con khóc đến lòi rún ra" (Ca dao). Bởi thế, những
người khắt khe lại cho rằng: chơi bài chòi là đánh bạc
vì sử dụng bộ bài tới, có cáp tiền và có sự ăn thua
nên mới hấp dẫn như vậy. Xin thưa "không", chơi bài chòi
không mang tính cách sát phạt của sòng bài, những người
có máu cờ bạc không lấy gì làm thích thú ở cuộc chơi
này. Trong lịch sử bài chòi, chưa có ai khuynh gia bại sản
vì đam mê trò chơi này, và cũng chưa thấy ai giàu có vì trúng
mánh bài chòi.
Ở bài chòi, ngoài việc thử thời vận, bói hên xui vào dịp
đâu năm, người ta còn tìm đến bài chòi để mua vui qua giọng
hô, tài ứng đối và lối diễn trò của Hiệu. Vì vậy, đánh
bài chòi là một thú tiêu khiển, một hình thức vui chơi nhẹ
nhàng, tao nhã, ít tốn kém. Một hội chơi dân gian đã trở
thành tập tục vào dịp đầu xuân, mang tính chất khuyến
khích sáng tác và duy trì thi ca bình dân.
Ở các tỉnh miền nam Trung phần, nhất là Bình Ðịnh ngày
nay còn lưu lại rất nhiều ca dao qua lối chơi này, đóng góp
không nhỏ vào kho tàng văn chương bình dân của nước nhà.
Tiếc rằng hội bài chòi và trò chơi truyền thống của nó
từ sau năm 1945 đã mai một dần, đến nay hầu như mất hẳn...
ÐÀO
ÐỨC CHƯƠNG
Giai Phẩm TÂY SƠN Xuân Canh Thìn 2000 Source : http://www.lebichson.net |
[ Trở Về ]