Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ] [ Tác
giả ]
|
|
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, 1986 Los Angeles, August, 15th, 2013. Sáng nay Petrus Ký Đàm Quang Trung gửi cho các anh chị em Petrus Ký bài viết về nhà văn, nhà báo, nhà giáo Nguyễn Xuân Hoàng. Ông giáo dạy môn triết, có biệt tài giảng bài trong lớp học với sức quyến rủ văn chương lưu loát như phong văn của ông. Tôi học Petrus Ký nên gặp ông nhiều lần, vị thầy vui tánh, cởi mở, da trắng muốt như hoa bưởi, nhân dáng điển trai,... Nguyễn-Xuân Hoàng và Hoàng Xuân Sơn 2012 |
Anh bạn tôi lớp PK-12B1
cho biết ông nói về quý vị existentialistes, ngữ như giới
mouvements littéraires hay études littéraires, những Jean Paul Sartre,
Albert Camus, André Malraux, Simone De Beauvoir, François Truffaut, Alain
Resnais, Françoise Sagan, Simone Signoret, André Breton, Maud Mannoni,...Có
lẽ văn học Pháp ảnh hưởng giới văn chương Việt Nam ta
không ít,... nào những văn chương của thuở la pléiade, l'humanisme,
le baroque, le classicisme, les lumières, le romantisme, le réalisme,...
GS. Nguyễn Xuân Hoàng giảng bài say sưa, trong đam mê dù triết học hay văn chương,... Vị thầy mà khoảng cách thời gian lớn hơn chúng tôi độ một giáp. tức trẻ măng vào ngày nay khi nhìn lại cái dĩ văng êm đềm lửng thửng trôi qua rồi. Ảnh chụp từ trái quý giáo sư Dương Ngọc Sum, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Thanh Liêm (đứng giữa mặc complet nâu) cùng các thầy khác và bao quanh bởi các học trò cũ. Vào 2009 hôm chúng tôi, các bạn bè văn nghệ, họp mặt nhau tại tư gia của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Doãn (San Jose) có niên trưởng chưởng môn Hà Thượng Nhân, KQ Dallas Phan Đình Minh, Vân Khanh, Cát Biển, Yên Sơn, Tú Minh, Vĩnh Thanh Thảo, Mạc Phương Đình, Đào Nguyên,... Petrus Ký có Nguyễn Ngọc Linh PK-12B4, Phan Tấn Đạt 12B4, Việt Hải 12B4, và nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, các anh em PK ngồi chung dãy bàn tiệc với ông giáo môn triết và ôn lại không gian có những ngày vui Petrus Ký, nhắc nhau cái quá khứ của những kỷ niệm một thuở VNCH bay theo phong vân lãng đãng đã qua rồi. Tôi nhắc về chuyện triết học của thầy Hoàng, có những existentialisme, hay psychanalyse, với approche psychanalytique của Sigmund Freud, cha đẻ ra môn phân tâm học,... Psychanalyse vốn khô khan, khó hiểu đối với thuở học trò nhập môn của chúng tôi. Phân tâm học do Sigmund Freud đưa ra những ý tưởng nguyên thủy, những từ ngữ chuyên môn mà ngày nay đã được hòa nhập vào cuộc sống thường nhật của chúng ta như sự tất nhiên, nhất là tại xứ Huê Kỳ này. Thực vậy, tất cả mọi phạm trù về trí tuệ hay về tri thức của con người như văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, bói toán, tôn giáo, nhân chủng học, giáo dục, luật pháp, xã hội học, sử học, nhất là môn y khoa và những môn học về xã hội tôi nghĩ đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của học thuyết Sigmund Freud. Nói chuyện với thầy Hoàng trong cái tâm tình văn chương thật vui vui. Ngày nhà văn Cao Xuân Huy qua đời, tôi viết bài tiễn đưa. Tôi dùng trích đoạn văn chương của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, bài ông viết về tác giả "Tháng Ba Gãy Súng" Cao Xuân Huy. . Hàng đứng: Anh chị nhà văn Nguyễn Vy Khanh, hai con trai của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, Song Thao. Hàng ngồi: anh chị nhà báo Trường Kỳ, nhà văn Trang Châu, nhà thơ Lưu Nguyễn, nhà thơ Bắc Phong. Montréal, tháng 9, 2003. Ngày các cựu học sinh Petrus Ký Nam Bắc Cali nhóm họp với chủ đề "30 Năm Nhìn Lại", 1975-2005, các học trò Petrus Ký hàn huyên thân mật với các giáo sư, thầy Hoàng trên sân khấu kề chuyện 22 tuổi khởi sự ra làm thầy trong vui vẻ. Tôi hiểu vì hôm nay con trai đầu lòng cùa chúng tôi được một trường tư thuê dạy môn computer applications kèm cho các em học sinh trung tiểu học, cháu Nam muốn kiếm tiền hè, tôi từ bên ngoài lớp học len lén nhìn vị thầy 20 tuổi đứng lớp giảng bài sao mà giống thầy Hoàng ngày xưa quá vậy nhỉ <?> Ảnh chụp lưu niệm các cựu học sinh Pétrus Ký Reunion, ngày Đại Hội 2005. Petrus Ký Nam Bắc Cali Hội Ngộ (30 năm): http://www.saigongate.com/tac-gia.aspx?id=358 |
Tôi lang thang vào "bờ-lốc"
VOA Nguyễn Xuân Hoàng, bài vở nhiều lắm, thong thả đọc
"bờ-lốc" như danh tứ các vị trong xứ thường dùng, bài
do ông giáo Petrus Ký dạy môn văn chương, GS. Nguyễn Văn Sâm,
được GS. Nguyễn Xuân Hoàng cho chểm chệ treo trên "bờ-lốc"
VOA, dĩ nhiên người trong xứ truy cập (browse, surf in) vô rất
nhiều. Trong cái nhìn của tôi khi ai viết về những vị ân
sư, những vị thầy mình hâm mộ, mến mộ là sự hãnh diện,
GS. Nguyễn Văn Sâm viết vị thầy toán học của ông, GS. Nguyễn
Văn Phú. GS. Phú dạy môn toán học vốn khó nuốt, ôi những
phương trình vi phân, những phương trình tích phân; những
ngữ như équation différentielle, équation intégrale mà những
năm đầu tiên ngành kỹ sư của anh em chúng tôi va chạm trong
các campus Mỹ. GS. Nguyễn Văn Phú còn là nhà văn biên khảo
uyên bác, đặc biệt về triết lý Phật học.
http://www.ninh-hoa.com/Ninh-HoaDOTcom-GSNguyenVanPhu-Index.htm http://www.ninh-hoa.com/Ninh-HoaDOTcom-GSNVPhu-BuocVaoCuaPhat-2-10.htm Nha Trang là một thành phố ven biển đẹp tuyệt vời của xứ Việt number one của chúng ta, nó là thị xã đông dân cư của tỉnh Khánh Hòa, dù Nha Trang hay Khánh Hòa là quê hương xứ sở của những ai, hay những ai theo học tại đó như những nhà văn mà tôi quen biết Vinh Hồ, TQLC Huỳnh Văn Phú, Nguyễn Vy Khanh, Nguyễn Văn Thành, Quách Giao, Dương Anh Sơn, Phạm Tín An Ninh,... và dĩ nhiên có nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Tôi sống tại Nha Trang thuở nhỏ, nhà tôi ở trên đường Độc Lập, khá gần biển, tôi yêu miền thùy dương cát trắng này, tản bộ dọc bờ biển đón nhận những ngọn gió biển thồi nhẹ mát rượi khi chiều xuống; Tuyệt! ngửi lấy không khí biển mặn như mùi thơm rong rêu (seaweed, algae) hay vị ngọt ngào của nước dừa miệt biển thùy dương, dĩ văng đẹp đến thế đấy. Hôm nay lang thang trên web thầy Hoàng mang tôi về vùng đất xưa.... Nha Trang, đó là một thành phố của tình yêu và chia biệt, thành phố của những mối tình mùa hè,... Nha Trang, NS. Minh Kỳ, Ngọc Trân trình bầy: http://www.youtube.com/watch?v=SY1Yq7MZezY " Nhatrang, đó là một thành phố của tình yêu và chia biệt, thành phố của những mối tình mùa hè, của những con sóng biển vô tình, những con dã tràng trên cát, những dấu chân bị nước cuốn đi không để lại một vết tích nào như thể trước đó nó không hề tồn tại... Nha Trang là một thành phố ven biển đẹp tuyệt vời của xứ Việt Tôi là người có hai quê: cha tôi ở bên Thành, mẹ tôi ở N.H. Nhatrang nằm ở giữa. Đường đi lên Thành-Citadelle gần, nhưng đường từ Nhatrang đi N.H. xa hơn, cách nhau tới hai ngọn đèo, đèo Rù Rì và đèo Rọ Tượng. Mẹ tôi người Minh Hương. Và N.H. có thể nói là thị trấn của những người Minh Hương. Tính chất Minh Hương ấy hiện lên rất rõ trong những ngày lễ lạc. Cả một thị trấn chiếm một khúc ngắn trên quốc lộ Một và tỉnh lộ Hai Mươi Mốt này gặp ngày lễ lớn người ta thấy bay rợp trời những lá cờ Trung Hoa, họa hoằn lắm mới thấy một vài lá cờ Việt Nam. Và ngay cả những người dân sống trên con lộ chính này cũng là những người Hoa. Bà dì tôi đúng là một người Hoa, Hoa một trăm phần trăm, Hoa từ mái tóc ngắn kiểu "bôm bê" đến giọng nói, từ cách sống đến lối nghĩ, từ quần áo của bà mặc đến lối trang trí nhà cửa ... Thế nhưng mẹ tôi, lạ thay không có chút mảy may Tàu. Trái lại bà có cái vẻ bề ngoài của một phụ nữ tây phương hơn là một người Á đông. Chỉ có y phục, cách ăn uống, cách dạy con, sự xuề xòa, giọng nói của bà là Việt Nam mà thôi. Bà giống một phụ nữ Việt nghèo khổ hơn là một người Hoa giàu có...." Văn phong của Nguyễn
Xuân Hoàng nhắc nhớ tâm hồn tôi về chốn đẹp quê hương,
văn chương của ông cho tôi chút xao xuyến, chút bâng khuâng,
và chút bồi hồi khi moi góc nhớ quê hương từ tiềm thức
cũ mà hinh như đã chìm sâu vào quên lãng. Bài viết "Nha Trang
Trong Mắt Tôi" ghi nhận tiếp:
"Tôi hiểu vì sao tôi yêu những khóm dương trên biển hơn ngôi nhà, yêu bãi cát trên biển hơn chiếc giường tôi nằm chung với một đứa khác mỗi đêm... Nhatrang, thành phố của biển xanh, và cát trắng, của rừng dương, rừng dừa, của Hòn Chồng, Cầu Đá, của cầu Hà Ra, Xóm Bống, của Tháp Bà, của Lương Sơn, Đồng Ðế, ...Nhatrang, thành phố ấy bao giờ cũng dính chặt vào trí nhớ tôi.... Ngôi trường tiểu học là thiên đường của tuổi thơ, nơi đã cho tôi những tình bạn trong sáng mà giờ đây khi hồi tưởng lại tôi vẫn thấy ấm áp cả trái tim...", hay "Nhatrang, thành phố đó đã dạy cho tôi bài học đầu tiên về lòng nhân ái. Ông chú bà thiếm tôi là những người nhân ái như thế. Những người con của chú thiếm tôi cũng là những người nhân ái như thế. Nhưng tôi giống như một con vật bị săn đuổi vì thiếu cha, thiếu mẹ, chui rúc vào những hang động của tuổi thơ. Bãi biển đẹp nhất trên thế giới là nơi tôi tìm đến những ngày trốn học. Núp dưới bóng những gốc cây dừa, nằm giữa lùm cây trong rừng dương, hay ẩn mình trong hốc đá Hòn Chồng, tôi khám phá ra đời sống là một chuỗi những hạnh phúc và đớn đau, hay những đớn đau-hạnh phúc. Tôi thấy sự cô đơn trong đám đông và thấy cả nỗi ấm áp tình người trong sự cô độc..." "Mỹ miều kỷ niệm Nha Trang Người xa hồn tưởng mơ màng nơi đâu?" VHLA |
Tôi nhớ kỷ niệm xưa
khi tôi và ông anh "chôm" trứng gà của mẹ tôi đánh trộn
vào cát trắng Nha Trang như bắt chước làm bánh, báo hại
bà không còn trứng gà làm bánh bông lan, nên hai anh em chúng
tôi ăn đòn phạt vạ cho chừa tật phá của, và khỏi ăn
bánh bông lan ngày ấy. Kỷ niệm Nha Trang phải có con phố
mỹ miều chạy đọc biển Avenue de la Plage của thời Pháp
thuộc, sau này là Đại Lộ Duy Tân, chạy dài từ Ty Bưu Điện
rồi chạy theo dọc như vô tận về hướng Cầu Đá. Nha Trang
có Hải Dương Học Viện cũng gần Cầu Đá, có Trung tâm Huấn
Luyện HQ Nha Trang, nơi là nhiệm sở của thân phụ tôi khi
HQ Pháp chuyển giao sang cho HQVN.
Và Thi ca ca tụng vẻ đẹp của Nha Trang: "Mỹ
miều kỷ niệm Nha Trang
hay, "Người
ơi còn nhớ Nha Trang
"Nha
Trang thuở nhỏ một thời
Quê hương có thể được xem như nơi ta mở mắt chào đời, nơi nuôi ta khôn lớn, quê hương tiềm ẩn trong ký ức, rất khó quên, lòng yêu mến quê hương mà quyển sách xưa của văn hào người Ý, Edmondo de Amicis, tác giả của danh tác "Tâm Hồn Cao Thượng" (Les Grands Coeurs, Cuore [Heart] 1886), kể về lòng yêu nước của cậu bé Thành Padova yêu thương quê hương, một dấu ấn cho nhiều chúng ta của một thuở đã qua. Một chế độ chính trị, một thể chế cầm quyền có thể vi phạm sai lầm bởi yếu tố nhân tai, nhưng quê hương bởi bản sắc không bao giờ sai trái cả. Hãy ca tụng nơi bạn sinh ra, dù quê làng thôn xóm có nghèo khổ, nhưng đó là quê hương bởi định nghĩa, bởi tình yêu cho quê hương, quê hương là nôi sưởi ấm trong góc nhớ trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Nắng Lên Xóm Nghèo,
Như Quỳnh:
Lối Về Xóm Nhỏ, Phi
Nhung:
Lời cuối, xin cám ơn nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng của quê hương Nha Trang, viết về Nha Trang trong trân trọng. Diễn trình "Sinh-Bệnh-Lão-Tử" là chu kỳ tất yếu của mỗi con người chúng ta, nhưng trong cuộc sống này các yếu tố phúc đức và may mắn đóng góp không ít cho sự sống, xin phép đại diện cho quý bạn của sân trường Petrus Ký ngày xưa, của thế hệ Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, kính chúc thầy Hoàng luôn được an bình và vui mạnh.
|
NGUYỄN XUÂN HOÀNG |
(Tặng
những người Nha Trang,
Tặng những người yêu Nha Trang.) |
1.
Mỗi chúng ta ai mà chẳng có một quê hương. Khi bỏ nước ra đi, chúng ta mang theo trong lòng một [những] khuôn mặt, một giọng nói, một màu áo, một tiếng rao quà ... mà chúng ta không hề ngờ tới. Chỉ khi nào trái tim ta đau buốt vì thương cảm, hoặc nổ tung ra vì hạnh phúc ta mới chợt nhớ ra quê hương đang ở trong lòng ta. Cũng có khi quê hương sống dậy vì một chút nắng, hay một giọt mưa, một bãi cát [vàng] hay một con sóng biển, một mầu trời hay một tiếng nói mang âm hưởng của vùng quê ta, ... lúc đó ta biết rằng không có chi ngăn nổi trí nhớ nóng bỏng của ta làm hiện ra những hình ảnh cũ. Bởi vì thật bất ngờ, đôi khi chỉ thoảng một "mùi hương" cũng đủ khơi dậy trong ta biết bao kỷ niệm quê hương. Đối với tôi, thời tiết giá buốt những ngày cuối đông đầu xuân ở California gợi lại trong tôi biết bao điều về thành phố quê hương, nơi đã nhìn tôi lớn lên, đã thêu dệt trong tôi biết bao mộng ảo, đã đày đọa tôi tới chín tầng địa ngục. Nhatrang, đó là một thành phố của tình yêu và chia biệt, thành phố của những mối tình mùa hè, của những con sóng biển vô tình, những con dã tràng trên cát, những dấu chân bị nước cuốn đi không để lại một vết tích nào như thể trước đó nó không hề tồn tại ... 2. Tôi là người có hai quê: cha tôi ở bên Thành, mẹ tôi ở N.H. Nhatrang nằm ở giữa. Đường đi lên Thành-Citadelle gần, nhưng đường từ Nhatrang đi N.H. xa hơn, cách nhau tới hai ngọn đèo, đèo Rù Rì và đèo Rọ Tượng. Mẹ tôi người Minh Hương. Và N.H. có thể nói là thị trấn của những người Minh Hương. Tính chất Minh Hương ấy hiện lên rất rõ trong những ngày lễ lạc. Cả một thị trấn chiếm một khúc ngắn trên quốc lộ Một và tỉnh lộ Hai Mươi Mốt này gặp ngày lễ lớn người ta thấy bay rợp trời những lá cờ Trung Hoa, họa hoằn lắm mới thấy một vài lá cờ Việt Nam . Và ngay cả những người dân sống trên con lộ chính này cũng là những người Hoa. Bà dì tôi đúng là một người Hoa, Hoa một trăm phần trăm, Hoa từ mái tóc ngắn kiểu "bôm bê" đến giọng nói, từ cách sống đến lối nghĩ, từ quần áo của bà mặc đến lối trang trí nhà cửa ... Thế nhưng mẹ tôi, lạ thay không có chút mảy may Tàu. Trái lại bà có cái vẻ bề ngoài của một phụ nữ tây phương hơn là một người Á đông. Chỉ có y phục, cách ăn uống, cách dạy con, sự xuề xòa, giọng nói của bà là Việt Nam mà thôi. Bà giống một phụ nữ Việt nghèo khổ hơn là một người Hoa giàu có. [Những người Hoa trong thị trấn nhỏ này chỉ có người giàu chớ không có người nghèo]. Nhưng thời gian tôi ở với mẹ và cha tôi ít hơn là thời gian tôi ở với chú thiếm tôi ở thành phố Nhatrang. Và làng Quang Thạnh, quê của cha tôi, nơi tôi còn có những thân thích ruột thịt khác, những ông chú hiền lành, những ông bác khó tính, những bà cô khắc nghiệt, những người anh em họ hàng cùng lứa tuổi tôi gần gũi một cách nhạt nhẽo,... Tôi là một người khách lạ trong ngôi nhà trọ. Cô Tám tôi, tên Hương là một người đàn bà khắc nghiệt. Bà có một hàm răng rất trắng, rất nhỏ và rất khít. Bà không ăn trầu như những người phụ nữ cùng thời với bà. Cô có một ngôi nhà lớn năm gian, đầy những bàn ghế tủ trang thờ bằng gỗ cẩn xà cừ, sạch sẽ như lau như ly, với một vườn cây ăn trái rộng như một khu rừng. Bà có hai người con gái, nhưng mỗi lần gặp tôi bao giờ bà cũng bảo "mày có muốn về ở với cô không?". Tôi thưa với bà là tôi không hề muốn ở với bà, và tôi cũng chưa hề có ý định sống dưới một mái nhà với bà. Tại sao, tôi không biết. Mặc dù cô có hai người con, tôi có cảm tưởng như cô tôi không chồng, bởi vì tôi cũng không bao giờ nhìn thấy bóng ông Dượng tôi, và tôi cũng chẳng bao giờ nghe bà nói về ông Dượng của tôi. Tôi muốn biết tại sao nhưng không bao giờ dám hỏi. Cô tôi thường nói: "Tao muốn một đứa con trai cho nó ấm nhà ấm cửa. Mày có muốn làm con tao không?" Và tôi nhớ câu trả lời dứt khoát của tôi lúc đó là "Không!" "Tại sao?" Tôi không biết trả lời cô tại sao, nhưng tôi biết là tôi rất không thích cô. Hình ảnh của cô còn trong trí nhớ tôi đó là một phụ nữ nhỏ thó, ăn mặc rất sạch sẽ gọn gàng, da dẻ hồng hào và "ưa kiện tụng". Gần như suốt đời cô là một chuỗi tháng năm lên toà xuống huyện. Hai người con gái của cô, mà tôi gọi là em, là những đứa bé gái xinh đẹp dễ thương. Sau này lớn lên, đôi khi tình cờ gặp lại hai cô em tôi, hai thiếu nữ duyên dáng, lạnh lùng, nhìn tôi như nhìn một người xa lạ. Gần như cả ngôi làng đó chỉ gồm toàn những người trong dòng họ nhà tôi. Cái bánh xe nước trong phim "Chúng Tôi Muốn Sống" do Lê Quỳnh đóng với Mai Trâm và Thu Trang thuộc vùng đất nhà từ đường phía cha tôi. Tôi không ở với cha tôi, mà cũng không ở với mẹ tôi. Tôi xa gia đtình từ nhỏ. Tôi ở nhà chú tôi vì cha tôi muốn tôi ở nhà quê, và vì mẹ tôi muốn tôi "phải đi học". Chú tôi làm việc ở toà tỉnh Nhatrang, lúc đầu nhà ở đường Hoàng Tử Cảnh, sau dọn về đường Yersin. Ông chỉ là một công chức thường, lương ba cọc ba đồng, còn thiếm tôi thì vì sức khoẻ kém, gần như chỉ suốt ngày quanh quẩn trong nhà lo cho đàn con. Vậy mà chú thiếm tôi phải nuôi thêm một miệng ăn ngoài một đàn con gần mười đứa, không một lời than văn. Chú thiếm tôi rất thương tôi, những đứa em tôi, con của chú thiếm tôi, cũng tử tế với tôi như một người anh ruột. Nhưng tôi sớm nhận ra mình chỉ là một đứa bé lạc loài, một kẻ ăn nhờ ở đậu, một miệng ăn gây nhiều khó khăn cho một gia đình đông đúc. Và thế đó mà tôi lớn lên, lớn lên trong một đời sống tâm hồn khốn khổ, giữa một thành phố thơ mộng và đẹp đẽ là Nhatrang. Tôi không ở lâu trong một ngôi nhà nào. Mỗi nhà chứa tôi trong một thời gian ngắn. Tôi là đứa bé báo cơm, một cậu học trò thiếu sách vở, một thằng nhóc lẫn vào những đứa trẻ bụi đời... Ở lớp học ra, tôi không biết về đâu. Ngọn đèn buổi tối vàng om không chiếu sáng những trang chữ. Những bữa cơm nuốt trong vội vã, đôi đuã không biết thế nào là cá và thịt. Đêm luôn luôn dài hơn ngày. Bóng tối bao giờ cũng nhiều hơn ánh sáng.. Mọi người cười cười nói nói với tôi, nhưng mỗi câu nói cho tôi biết tôi là gánh nặng của gia đình nơi tôi ở trọ. Ai cũng nói "con ở đây, cứ tự nhiên như nhà của con", nhưng người nghe đủ thông minh để nhận ra "con là gánh nặng mà ta không bỏ xuống được..." Những cuốn sách mượn của bạn, những tập vở xin của một thầy giáo, những cây bút nhặt được từ một đống rác... và.... Tôi hiểu vì sao tôi yêu những khóm dương trên biển hơn ngôi nhà, yêu bãi cát trên biển hơn chiếc giường tôi nằm chung với một đứa khác mỗi đêm... 3. Nhatrang, thành phố của biển xanh, và cát trắng, của rừng dương, rừng dừa, của Hòn Chồng, Cầu Đá, của cầu Hà Ra, Xóm Bống, của Tháp Bà, của Lương Sơn, Đồng Đế, ...Nhatrang, thành phố ấy bao giờ cũng dính chặt vào trí nhớ tôi. Ngôi trường tiểu học là thiên đường của tuổi thơ, nơi đã cho tôi những tình bạn trong sáng mà giờ đây khi hồi tưởng lại tôi vẫn thấy ấm áp cả trái tim. Những Đoàn Lân, Lê Văn Quyền, Tôn Thất Lưu, Trần Lâm Cao, và Hà Thúc Nhơn, Duy Năng, Trần Ngọc Bích, Dương Hồng Ngọc, Trương Hồng Sơn, Nguyễn Đức Sơn, Huỳnh Tấn...những người bạn gái như Bích Ngô, Bích Hường, Hoàng Thị Ngọc Táo, Minh Nguyệt, ...những ông anh bà chị như Như Phú, Tuý Hoa, Dạ Khê, Nguyễn Hữu Trí, ...những đứa em Hoàng Bắc, Ngọc Trúc, Liên Châu, Chúc, ...và cả những người "yêu" Odette, Bạch Mai, Bích nếu tôi được phép gọi như thế. Những bạn ấy có người vẫn còn ở thành phố này nơi tôi đang sống, cũng có người đang ở những tiểu bang khác, những quốc gia khác.... Có người còn sống có người đã chết, nhưng dù đang có mặt tại đây nơi xứ lạ quê người, hay vẫn còn ở quê nhà bao giờ gặp lại hay nhắc đến cũng đều gợi lại trong tôi những tình cảm tốt đẹp, trong sáng, và thơ dại, như thể chỉ có trong những chuyện cổ tích hơn là ngoài đời. Nhatrang, tên gọi đó với tôi không phải chỉ một thành phố, đó là một gia đình. Không phải gia đình được định nghĩa là một tổ ấm gồm cha mẹ con cái và anh em. Gia đình tôi trong những ngày cắp sách đến trường là những ngôi nhà luôn luôn thay đổi. Có khi là nhà bà Dì trên Xóm Mã Lạng; có khi là nhà bà Cô ở Rạch Rau Muống. Có khi là nhà ông Chú ở Hoàng Tử Cảnh. Nếu những bữa cơm gia đình tôi đói tình thương thì chính những giờ học làm tôi no nê kiến thức và tình cảm. Những ông thầy bà cô tôi là những khuôn mẫu đẹp đẽ không bao giờ phai trong trí nhớ tôi. Cả một thành phố Nhatrang là gia đình tôi. Lớp học, bãi biển, rừng dương, bầu trời, ngọn gió, tình bạn,.... Đó mới chính là gia đình tôi... 4. Nhatrang, thành phố đó đã dạy cho tôi bài học đầu tiên về lòng nhân ái. Ông chú bà thiếm tôi là những người nhân ái như thế. Những người con của chú thiếm tôi cũng là những người nhân ái như thế. Nhưng tôi giống như một con vật bị săn đuổi vì thiếu cha, thiếu mẹ, chui rúc vào những hang động của tuổi thơ. Bãi biển đẹp nhất trên thế giới là nơi tôi tìm đến những ngày trốn học. Núp dưới bóng những gốc cây dừa, nằm giữa lùm cây trong rừng dương, hay ẩn mình trong hốc đá Hòn Chồng, tôi khám phá ra đời sống là một chuỗi những hạnh phúc và đớn đau, hay những đớn đau-hạnh phúc. Tôi thấy sự cô đơn trong đám đông và thấy cả nỗi ấm áp tình người trong sự cô độc. Tôi không phải là học sinh giỏi. Tôi càng không phải là một học sinh thông minh. Tôi chỉ là một đứa bé thấy thích thứ gì thì cố mà đi tìm hiểu cho ra thứ đó. Thủa đó tôi không tìm ra chữ nào phù hợp với suy nghĩ của tôi, nhưng gần đây tôi giật mình đọc được tựa đề một cuốn truyện dịch từ tác phẩm của Colleen McCullogh, The Thorn Birds, mà tôi rất "thích": Tôi là một trong "Những con chim ẩn mình chờ chết". Tôi vẫn còn nhớ những ông thầy bà cô của tôi, những người đầu tiên dạy tôi đọc chữ, những người dạy tôi cách hiểu nghĩa và nhắc đến Nhatrang là nhắc đến một thành phố với lòng biết ơn của những đứa con. Thầy Cung Giũ Nguyên dạy tôi lòng yêu văn chương, thầy Điểm hội hoạ dạy tôi lòng yêu mầu sắc, thầy Dưỡng dạy tôi thế nào là âm nhạc, ...Biển Nhatrang dạy tôi thế nào là vẻ đẹp và sự tàn bạo của thiên nhiên. Nó cũng dạy cho tôi sự nhỏ bé của con người trước sự vĩ đại của trời đất. Biển Nhatrang là một cuốn sách mà tôi sẽ đọc hoài trong suốt cuộc đời tôi. Ðọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung tôi thích nhất là câu "ngoài trời còn có trời", tôi nhìn ra "ngoài biển còn có biển." 5. Tôi xa Nhatrang đã lâu. Lâu lắm. Tôi đã đi nhiều nơi, nhiều thành phố, nhiều nước. Tôi đã gặp gỡ nhiều người. Những người thông minh, khôn ngoan, đẹp đẽ, giàu có, sang trọng. Những người nghèo khó, vô gia cư, vô nghề nghiệp. Những người tha phương cầu thực. Tôi đã sống với họ, đã chia xẻ nỗi đau với họ. Tôi khám phá ra hình như tôi gần gũi hơn với những ngưòi cùng khổ. Tôi cũng là nạn nhân của bọn người hãnh tiến, bọn ăn xổi ở thì. Nhưng thật ra, họ giàu hay họ nghèo, họ có chức tước danh vọng hay họ chỉ là những người thường dân vô danh ...bao giờ tôi cũng yêu thương họ. Yêu thương những con người bị đọa đày và tội nghiệp cho sự hãnh tiến của những kẻ số đỏ. Yêu thương sự chân thật lòng nhân ái của người này, và tha thứ những dối trá lọc lừa của người kia. Yêu thương cả những người trưóc đây từng chà đạp lên nỗi đau khổ của tôi. Cũng như tôi đã từng yêu thương những lằn roi xé thịt của cha tôi nhiều lần giáng xuống thân thể run rẩy của tôi, yêu thương những giọt nước mắt của mẹ tôi từng khóc vì tôi làm mẹ khổ. Chính thành phố Nhatrang với biển khơi mênh mông của nó, rừng dương xanh đầy gai góc của nó, ...đã trở lại với tôi. Nhatrang ở trong trái tim tôi. Nó nhắc tôi nhìn ra sự phù du và phù phiếm, nó chỉ cho tôi "ngoài trời có trời", "ngoài biển có biển". Chiều nay, tôi đi một mình đến Huntington Beach, một chút biển ở Cali để tìm ra một chút biển Nhatrang. Trên chiếc cầu bắc cao trên bờ cát một buổi tối tôi đã nhìn thấy biển đêm, nhìn thấy quê hương tôi mờ mịt. Tôi quên mất quá khứ, tôi không có tương lai. Và hiện tại? Tôi là "con chim ẩn mình chờ chết"...
Nữ sinh Võ Tánh Nha Trang 1957
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++ |
Nguyễn Văn Sâm 27.02.2013 |
Lúc tôi còn nhỏ, cha
mẹ tôi, vì sinh kế, xách tôi đi trường nầy trường kia
hoài cho nên thằng bé vô Đệ Thất hơi trễ. Năm 1954, lúc
vô trường Petrus Ký thì đã 14 tuổi rồi. Hai năm sau, thấy
mình đã trộng mà còn lẹt đẹt ở các lớp đệ nhất cấp,
tôi quyết định học nhảy ở trường tư. Và từ đó tôi
được học với nhiều thầy danh tiếng, trong đó có thầy
Nguyễn Văn Phú... chỉ có mấy tháng của năm học, như với
tất cả các thầy khác, vậy mà Thầy Phú đã tạo dấu ấn
trong tôi suốt cả đời.
Thuở đó Trung học tư
thục Văn Lang của Giáo sư Ngô Duy Cầu là trường lớn, nằm
ở đầu đường Cô Bắc Sài Gòn chuyên mở lớp thi tú tài
I, trường có nhiều thầy danh tiếng như Vũ Hoàng Chương,
Nghiêm Toản, Hoàng Cung, Vũ Huy Chấn, Nguyễn Khang, Nguyễn Văn
Phú, Phạm Văn Vận....
Tôi thích môn hình học không gian nên say mê giờ của thầy Phú, Thầy dáng người mập mạnh, to lớn, khoảng mới ngoài ba mươi, vui tánh, pha trò rất có duyên nên giờ toán của thầy luôn luôn hào hứng với những tràng cười rộ lên của lũ học trò trong khi mặt thầy thì nghiêm, khiến đứa nào cũng ráng chú ý bài giảng, không dám ỷ y. Tôi nhớ thầy hay khuyên tụi tôi nên chăm vào hai môn toán - lý hóa vì có hệ số cao của ban B, kết quả thi đậu rớt tùy thuộc vào hai môn này, Thầy còn nhấn mạnh đến bí quyết nắm vững bài học bằng cách tự trình bày miệng cho mô i bài đã học qua, vì khi đi thi trả lời đúng các câu hỏi giáo khoa là đã nắm hơn phân nửa chìa khóa mở cửa lên lớp đệ nhất thi tú tài II. Những phân tích thực
tế đó chẳng những giúp cho học trò thi đậu mà còn giúp
tôi có cái nhìn vào những vấn đề khác để phân tích sự
việc, biết sắp xếp trước sau hợp lý hơn. Tôi nhớ như
in gần ngày thi, thầy cứ dặn tới dặn lui là nên xin hai
tờ giấy nháp, mở to ra trên bàn cho trống trải, để khi
viết bài cho từng câu hỏi thì dễ tìm để kiểm chứng,
dễ đặt vấn đề...
Tuy dạy toán nhưng thầy
cũng nhấn mạnh môn Việt văn, khuyên học sinh nên làm phần
nhập đề và phần kết luận trên cùng một mặt của tờ
giấy nháp, mặt kia là những điểm chánh của bài luận với
càng nhiều câu thơ dẫn chứng càng làm phong phú thêm bài
luận văn, cứ nhớ câu nào thì viết ngay ra nháp rồi sau đó
tùy cơ mà sử dụng... Tôi đã áp dụng cách đó của thầy,
không phải chỉ trong bài thi tú tài năm đó, mà sau này dài
dài trong cuộc đời mình, dạy học, viết lách hay làm những
công việc trên bàn giấy...
Có thể những điều thầy nói hơn nữa thế kỷ trước không có nhiều học trò lưu ý. Điều đó cũng dễ hiểu, Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận, tùy theo căn cơ của từng trò, tùy theo tâm trạng của từng trò khi nghe giảng mà sự thấu đáo hay lơ đảng đến mức độ nào. Chừng mươi năm sau, khi đứng trên bục giảng, đã từng làm trò trước khi làm thầy, tôi bình tâm trước những khen chê của học trò, không trách móc hay hãnh diện vì biết rằng có một khoảng cách giữa lời mình giảng và sự thu nhận kiến thức của người học trò. Thời gian qua đi, người
học trò trường Văn Lang ngày ấy và ông thầy toán Nguyễn
Văn Phú không có cơ duyên gặp lại nhau trong dòng đời xuôi
ngược. Vậy mà gần chục năm trở lại đây tôi vô cùng
xúc động và cảm phục khi đọc những bài viết về đạo
Phật của thầy, văn phong trong những bài nầy giản dị, sử
dụng những ngôn từ gần gũi chúng ta, bài giảng của thầy
luôn thực tế, thấm lòng người, thể hiện cái tâm Phật
đạo của thầy trong từng trang chữ, giống như ngày xưa thầy
viết sách toán, lối trình bày dễ hiểu, biến đổi một
môn học khó khăn thành bài học dễ dàng khiến bộ sách của
thầy luôn là kim chỉ nam trong ngăn cặp học trò thời trước.
Ngoài bộ sách toán nổi tiếng, "Những bức thư cho con" của
thầy cũng làm xao xuyến lòng nhiều thế hệ, nói là viết
cho con cháu mình, nhưng thật ra thầy viết cho lớp trẻ sau
này, cho thế hệ 2 và 3,4 của đời "Việt dân di tản". Cho
dù các cháu nhỏ cách thầy tuổi đời non thế kỷ cũng sẽ
thấy như gần với thầy hơn trong bài học mới mẻ này, học
để biết cội nguồn của mình, và sẽ hỏi tại ai, vì sao
mà có những người Việt lưu vong? Các lớp con cháu này sẽ
biết hành động thế nào cho đúng khi ở xứ người mà không
quên gốc gác của mình, có cái nhìn đúng đắn về đất
nước Việt Nam, không bị hướng dẫn sai lệch do những quyển
sách lịch sử cận đại bị bóp méo, thiếu trung thực, tuyên
truyền...
Thầy Nguyễn Văn Phú
thời trai trẻ dạy học, khi xế bóng giảng về Phật pháp
cho bá gia bá tánh khắp nơi ngộ ra chơn lý thiện căn. Nói
về Phật pháp là vấn đề văn hóa, là sự chuyển mạch của
đời sống tâm linh, để người nói người nghe đều thân
tâm an lạc, nhưng khi thầy viết "Những bức thư cho con" hướng
dẫn thế hệ trẻ hải ngoại biết nhận ra hoàn cảnh hiện
hữu của mình và xác định vị trí đứng cũng như lý giải
nguyên nhân phân hóa của cộng đồng người Việt thì chắc
chắn rằng thầy đã lựa chọn một thái độ chính trị rõ
ràng và một cách nhìn đúng đắn của người đi trước.
Tôi nghĩ thầy đã không vui khi phải cân nhắc từng câu từng
lời, sự an lạc thảnh thơi của người thầy gần tám mươi
tuổi chắc khó mà đạt được khi thời cuộc nhiểu nhương
còn lởn vởn trong bóng xế tà của đời mình.
Thầy Nguyễn Văn Phú
đã thể hiện tấm lòng ái quốc ưu dân tột độ suốt đời.
Thầy đã sống một đời đáng sống trong niềm hãnh diện
quý trọng của học trò. Tôi tự hào trong cuộc đời mình
đã từng làm trò của thầy Phú.
Khi tôi viết những dòng
này thì thầy đã ra đi bên kia bờ thăm thẳm, mượn lời
thay nén hương kính dâng lên thầy với tấm lòng kính yêu
ngưỡng mộ cách sống, cách làm việc của thầy thuở sanh
tiền, ngoài tình thầy-trò hằng có bấy lâu nay.
Mong thầy ra đi thanh thản vì đời thầy có ích cho nhiều thế hệ, không bỏ một kiếp làm người...
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++ |
|