Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
]
[ Tác giả
]
|
|
Xưa nay người ta thường bắt gặp Friedrich Holderlin* đứng
bên cạnh những triết gia lớn như Kant, Plato, Hegel, Nietzsche
và Heidegger sau nầy... Họ nhìn Holderlin là một nhà triết
học hơn là một thi nhân. Thật như thế! Holderlin là một
tư tưởng gia vĩ đại về thi ca, một nhà thơ lừng lẫy ở
đầu thế kỷ thứ 19, thơ ông mang nặng tính triết lý, một
triết thuyết thơ, đơn thuần chất thơ nhưng bao hàm
một tư duy trong cuộc đời mà chính cuộc đời đang sống
của Holderlin làm nên những tư liệu trong thơ; vậy làm thế
nào để nhà thơ đạt được cái nhân tính đó một cách
sáng tạo và rồi trở nên một hiện tượng của cái gọi
là "Eins und Alles" một Nhất-Thể duy nhất "All-Unity" - Một
kinh nghiệm quán triệt, một tổng thể cần thiết trong cuộc
đời ông hay ông đã làm nên những vần thơ để lưu danh(?).
Cái đó chính là vấn đề cốt tủy 'fundamental question' trong
cái nhìn siêu lý của một thị lực và nghệ thuật thơ của
ông. Holderlin đương đầu giữa mọi tình huống qua thơ với
thơ để tìm thấy chất liệu sáng tạo trong thơ đồng thời
giảo nghiệm được chiến lược cho một quyết định về
triết thuyết của thi ca. Người đã gây chấn động không
ít về tư duy của chất thơ. Đó là vấn đề trọng tâm khi
nói đến Holderlin; bởi người đã có những áng thơ tuyệt
hảo trong số những nhà thơ lớn của thời bấy giờ ở
Âu châu.
Cơ bản lý luận về thơ của Holderlin là cả qui trình tiến hóa trong tư duy của ông là một 'nhất thể' được quan tâm đến, đó là mối bận tâm sâu xa của Holderlin về một vấn đề có tính chất tổng hợp như một tiến trình có lợi chung, đặc biệt về thi ca của Holderlin. Thi ca của Holderlin là thể loại khó và khác thường. Nhưng phải nói rằng những giòng thơ của Holderlin là cả một thực trạng tâm lý là một nhà thơ có trình độ cao và kỳ tài, một cái gì có tính quan trọng trong thơ ông làm ra như để lý giải cái quan điểm tư duy riêng mình, như muốn chế ngự toàn diện và thường có tính cách lý luận, điều ấy đã gây ảnh hưởng đến những thế hệ về sau cũng như những lời nhận xét khéo léo đầy ám thị của những nhà phê bình Đức thời đó. Thơ của Holderlin nói lên ý sâu xa giữa Thương đế với con người; khác với Nietzsche, cả hai có một niềm tin cách riêng , một đằng thì phủ nhận Thượng đế, một đằng thì trách cứ (gián tiếp) Thượng đế, như những lời thơ trong Bánh Mì và Rượu Đỏ 'Brot und Wein' và Thánh Ca 'Friedensfeier' đó là những gì từng trải, kinh qua những kinh nghiệm rõ ràng, một sự phân rẽ lớn lao qua các ngõ ngách như tỏ lòng tận tụy với 'Lycidas' hoặc 'Ode' của cổ Hy Lạp (Hellenic). Đó là trạng thái nguyên vẹn của nền văn minh Hy Lạp, cung phụng cho thi ca và được tượng trưng bằng đường nét lý tưởng trong thơ khúc của Diotima là đường nét bi ca truớc đây; 'Diotima! Seelig Wesen / Diotima! Blissful creature'. Bi ca như lời thống hối: "Diotima! Sáng thế niềm tâm phúc" đó là sự tồn lưu trong những lời truyền dịch riêng tư; ấy chính là lời ngỏ của Holderlin - the chief poem addressed to 'Diotima' exists in several versions - Còn Friedensfeier là gì ? Là một liên trình trực diện với một dự phóng để thích nghi cái mà Holderlin gọi là Nhất Thể / Eins und Alles / All-Unity; mà đó là điều ông nói nhiều nhất hơn cả thơ. Thi ca của Holderlin nó nằm trong cái siêu lý tổng thể đó. Friedensfeier; với Holderlin là cái nhìn lạc quan đối với những bài thơ có tính cách thánh ca. Mục đích của Holderlin là để cho thi ca hoàn toàn có một dự phóng như nhiên, xuất hiện gần như thị giác đầu tiên 'first sight' của thi tứ. Thơ như thể là một chứng thư văn tự, không thích nghi phù hợp của cái bình thường, nó nằm trong cái dạng siêu lý tự nhiên, cõi đó Holderlin cho là liên trình của tổng thể, đôi khi coi là xấc xược -impertinent- chính cái không thích nghi và xấc xược đó là cõi phi của thơ. Tất cả những dữ kiện đều nằm trong những vần thơ chính yếu của Holderlin. -Holderlin's major poems-. Giống như những thi khúc sonnet (14 câu) của Shakespeare; những bi khúc chính của Holderlin và thánh thơ (hymns) hết sức sống thực và vô biên như đối tượng thông đạt cho người đọc với một trí tuệ sáng suốt và một suy tư dành cho thi ca. Thành quả thi ca của Holderlin là làm sáng tỏ phần nào triết thuyết trong thơ của ông mà những câu thơ đó có thể bùng lên nếu người đọc cảm nhận được tính siêu lý của nó thì thi ca trở nên lý tưởng qua từng chi tiết một để có cái nhìn thận trọng, mới thấy được chủ thể của đề tài và có một cảm nhận liên đới với cái đẹp trong thơ. The poetic details while carefully observing their thematic and esthetic coherence. Yếu tính trong thơ của Holderlin là khám phá một cái gì thuộc về thổ ngữ trong thi ca, là một giải đáp khó khăn, là vấn đề thuộc về trừu tượng siêu hình trong Nhất Thể / Eins und Alles / All-Unity'. Holderlin muốn cảm hóa điều nầy. Ấy là chủ đề mà giới nhà văn Đức rất quan tâm như Goethe, Schiller và Hegel, cũng là điều được chú trọng của những nhà thơ Phương Tây ở thế kỷ 19. All-Unity là vấn đề quan tâm của ông nhưng nó không phải là nét đặc thù đem lại cho Holderlin. Tuy nhiên; Holderlin là một thi nhân tất phải làm hết sức mình trong những tác phẩm chính yếu của ông, những tập hợp đó là vấn đề của 'Nhất Thể / All-Unity'. 'Một và Tất Cả / Eins und Alles' . Holderlin nhận thức được những dữ kiện phức tạp của thổ âm là cả vấn đề cố hữu. Bất cứ một giới hạn nào của sự hợp nhất (unity) có thể trở nên một yếu tố trong một tổng thể lớn lao mãi cho tới khi được phân giải trong cùng một hợp nhất cao độ. All / Eins là danh xưng đơn giản của Tất-Cả; có thể là một cái gì lớn lao, bao trùm cho tất cả của hợp nhất đó là đấng vô cùng, là thể cách của Một / One / Eins mà được phân chia ra làm hai. Vậy Nhất-Thể / All-Unity / Eins und Alles được vạch rõ là Thượng đế (coi như vô-khả-tính) là hiện hữu hay sự sống, đối với Holderlin là tổng thể toàn diện và ông nhìn nhận Eins / All / Một ; chỉ có MỘT duy nhất là đấng để tôn thờ. Điều đáng kể để tương xứng cho tư tưởng của thi ca, vì đó là lời kêu gọi, lôi cuốn và hấp dẫn nhất đối với trí tuệ của con người, cái sự cớ ấy chính là nhân tố tối thượng cuối cùng của thi ca được danh xưng 'Deity' là thần thánh hóa như thử có sự liên can của con người với Thượng đế. Môt hiện hữu toàn diện. Những bài thơ sau cùng của Holderlin là tìm kiếm danh xưng cho được tương xứng cái nhu cầu cấp bách và đầy đủ ý nghĩa của việc thần thánh hóa (Deity). Danh xưng nầy là gạch nối rõ ràng không những cho một tổng thể; tuy nói là cho nhân loại, nhưng ở đây cũng là đối tượng của hợp nhất để lãnh hội được ý nghĩa sâu xa trong xanh xưng 'Deity' chính là cái gì thuộc về Thượng đế, dù trong mọi hoàn cảnh nhiêu khê chăng nữa, nhưng phải đầy đủ và sáng suốt để tiếp nhận sự lãnh hội giữa con người với Thượng đế. Thánh thơ (hymns) chính yếu của Holderlin là việc làm tiên khởi để dâng hiến niềm tin trước Thượng đế như bước đầu tìm kiếm một sự hợp nhất của thánh danh (divine name) và được xem như một thi ca đầy đủ và minh bạch nhất của Holderlin; một mong muốn lớn lao nhất đối với ông. Nói chung tư tưởng
thi ca của Holderlin là phóng vào nội tâm nhiều hơn
là phóng mình vào ngoại giới của thi ca; lắm lúc như phóng
túng, quên luôn lề lối thi tứ, như một cái gì 'tắc
nghẽn' trong giai đoạn mở đầu về thánh thơ và một đôi
khi tỏ ra nghiêng về việc nòi giống để rồi đưa tới 'cường
điệu ngớ ngẩn' trong thánh thơ hay vì quá suy tôn(?) mà Holderlin
hành động như thế. Hoặc chúng ta quá võ đoán khi đọc những
vầng thơ siêu hình trừu tượng của Holderlin. Không! Chính
cái ngây ngô, ngớ ngẩn đã làm nên những thành quả cho ông
nhất là những bài thơ sau nầy đã gây những sững sờ, ngạc
nhiên cho mọi giới.
Cuối cùng Holderlin muợn nhiều danh xưng có những đặc điểm chung trong thánh ca của Thiên Chúa giáo, để rồi như chiếm cứ với một thái độ, vai trò hướng đến hiện tại và tương lai cho cuộc đời này. Để giới thiệu chính mình, với tất cả sai biệt đó như một thứ hạnh phúc đầy đủ, là sự hủy phá nay được tuyên dương trong hai bài thơ tường thuật là những bài thơ cần thiết nếu được nuôi nấng cho một nền văn hóa đầy hoa mỹ ' Hymne an die Menschheit' và 'Hymne an die Freiheit' là hai thánh thơ xuất phát từ Tubingen đưa tới tính Nhân loại và Tự do, là một dữ kiện chính trị rõ ràng. Nhưng nhớ rằng; ở thơ của Holderlin không có dính dấp chính trị để 'từ hôn' thi ca, mà chỉ có tình yêu thương của Thượng đế và con người:
Meiner Gottheit grossen Sohn
Chân phúc là lòng tôn kính trung thực (**)
Và đây là những giòng thơ thuộc về thánh thơ mà con người sẽ không bao giờ miễn trừ, khinh bỉ hay phỉ báng, ngoại trừ những kẻ đứng bên trong quyền lực :
Hinunter dann mit deinen Thaten,
Hạ xuống rồi viết lên lời văn tự,
Vậy thì; thơ là một tiến trình bởi những gì thuộc về nhà thơ, đến với thơ như người khai phá; chức năng của Holderlin là một phạm trù triết thuyết để đạt tới thành quả viên mãn của lịch sử. Lịch sử thế giới là yếu tố cần thiết. Lịch sử về ý thức hệ tôn giáo là điều căn bản cho Holderlin, một thứ lịch sử dành riêng cho nhà thơ. Phần đầu của bài thơ "Bánh Mì và Rượu Đỏ / Brot und Wein" giới thiệu về hoàn cảnh của đêm, chất vấn đó có nghĩa là cho chúng ta một thứ dọ hỏi khích lệ để chúng ta đi tới hành động. Hành động đó chính là niềm tin, con đường sáng mà Holderlin mong muốn thực hiện bằng những vần điệu thơ (rhyme) mang tính thi ca tôn giáo, một sắc màu hài hòa để đả thông tư duy trong thơ của Holderlin. Ba cặp thơ đầu được mô tả cái cuối cùng của một ngày, thời gian hứng khởi, rộn ràng của thế tục với những chi tiết trong đời sống. Đọc đoạn thơ đầu trong 'Bánh Mì và Rượu Đỏ/Bread and Wine/Brod und Wein':
Satt gehn heim von Freuden des Tags zu ruhen die Menschen,
Những người đàn ông quay về nhà ngơi nghỉ thỏa thê một
ngày vất vả,
Chúng ta có cái nhìn về những tiến trình của Holderlin, một cái nhìn rộng mở qua thể thức của những bi ca. Ghi lại những gì xẩy ra giữa hiện tại và tương lai để đi đến thánh hóa. Sự sủng ái của niềm tin, đưa nhà thơ đến với Diotima trong 'Menons Klagen' và những ngày thánh lễ của Hy Lạp, chính là ngày vinh danh thánh hóa sự hiện hữu cuả Thượng đế trong bửa tiệc cuối -last soup- đó là hình ảnh chia xẻ và chấp thuận của Thượng đế đối với con người 'Brot und Wein'. Nhờ thế những thánh thơ đó có thể là một sự tồn lưu giữa nhân gian, nếu tất cả sự kiện đơn thuần như sợi giây liên lạc nối liền giữa hiện tại và quá khứ. Đấy cũng là ngõ cụt để nhà thơ Holderlin đương đầu với thế gian và nương nhờ vào những cung điệu trong thánh thơ của ông mà chuyển hóa được lòng người. Huyết mạch của Holderlin! Như đã ghi nhận;
những vần thơ trong thánh thơ ở Tubingen là dự phóng, là
một cái nhìn nội tâm say mê của Holderlin; đó là cảm giác
ngây ngất của con người khi đứng trước một tổng thể
duy nhất là 'Một'. Tạo được những bài thơ như thế là
tự động hóa lời hùng biện của mình (autorhetorical), gợi
lên được một trạng thái xúc cảm trong những bài thơ, lôi
cuốn người đọc vào trạng thái đó đồng thời tạo được
những trầm lắng qua thánh thơ mà Holderlin đã thể hiện,
tuy nhiên; sự thiết lập đó giúp cho nhà thơ thêm phần sáng
tạo chất liệu cho thơ và làm sáng tỏ mục đích của thi
ca. Cái chính của thánh thơ có lẽ là con đường 'thông-thiên-hội'
mà Holderlin mong muốn từ những ngày phát động thi văn và
đó là những câu hỏi được trả lời một cách minh
định và đúng nghĩa cho tư tưởng thi ca của Holderlin.
Thơ của Holderlin có một năng lực rộng lớn hơn loại thơ ngẫu hứng, một cơ hội cho chúng ta nhận ra được một biện minh cụ thể, được thành hình trong một hoàn cảnh thuận lợi cho dù lời thơ đã được sắp xếp mạch lạc để thành thơ. Holderlin thấy được cái bình yên bao la mới mẻ đó như một sự thúc bách, một thiên kỷ dành cho niềm tin thánh hóa một cách minh bạch với một sự hài hòa tuyệt diệu giữa Thượng đế và con người như cái gì cao cả đã diễn ra trong 'Brot und Wein' là một đánh dấu hạn hữu giữa Chúa và Con Chúa; chính cái biểu tượng đó là giấc mơ của Thượng đế : “Traum von ihnen ist drauf das Leben" (Cuộc đời có vậy mới là mơ) .
*
Thi ca Holderlin nằm
trong qui trình tổng hợp (general). Như thử nói đến 'cái đẹp'
Đây 4 câu thơ bày
tỏ của Holderlin trong bài thơ trữ tình 'Dichterberuf' :
Holderlin lớn lên với một tâm hồn thi sĩ có sẳn, vì thế ông mở mang trí tuệ như thiên phú, bẩm sinh đó là nhân tố nẩy mầm để tạo nên nguồn tư tưởng thi ca; tư tưởng đó như khuấy động ông phải thực hiện cho bằng được sự phát tiết bùng dậy. Nói chung, Holderlin
tư duy về Thượng đế từ lúc bắt nguồn qua những giáo
điều có tính độc tôn và quyền năng, đấng cao cả giữa
vũ trụ (pantheism) và cuối cùng chỉ đưa tới một niềm tin
không gì khác hơn. Theo khoa thần học : Thượng đế là đấng
toàn năng có sẳn (immanent) từ những cái có sẳn đó đưa
đến nhiều thứ khác nhau; cuối cùng rồi cũng vượt lên
tất cả. Trong giai đoạn đầu Thượng đế tự cảm
thấy ở chính mình như nhân loại bỏ rơi người, để rồi
trong thời mạt pháp của thế giới ngày nay Thượng đế trở
nên vô tư trước đòi hỏi của nhân loại, ấy
là điều thật sự bỏ rơi bởi Thượng đế.
Giữa hai trạng huống đó đến nay vẫn
chưa đi tới cái Nhất-Thể / Eins / All. Hoài bão
của Holderlin đã giải tỏa qua thi ca như
ông đã thực hiện. Nó vẫn nằm trong cái siêu lý của
thơ, mặc dầu Holderlin đã nói hết ngọn ngành kể cả thánh
thơ huyền nhiệm đầy chất siêu hình và trừu tượng. Trực
diện của thi ca giờ đây không còn là biểu hiện như một
con đường dài vạch sẳn (unilinear) mà chỉ có một sự nhượng
bộ và rẽ nhánh mà thôi. Những giòng thơ cơ bản và sáng
tỏ nhất ở Tubingen là những thánh thơ 'Mnemosyne' với những
thánh thơ xa hơn nữa. Đó là cái nhìn lạc quan về những
luận cứ của Holderlin; có thể đó là cái tạo ra bởi Thượng
đế. Đoạn cuối sau đây của Holderlin :
Sự xa dần với Thượng đế thường đến với chúng ta hầu như là điều đáng kể nhất trong sự phẩn nộ của Thượng đế(?). Tóm lại; phát triển những giòng thơ đầu và cuối của Holderlin trong nguyên tố của ý thức bất hạnh được phát hiện qua những bài thơ đã nói lên; từ những thánh thơ, sự đam mê cực độ như tặng phẩm dâng hiến giữa vai trò của nhân vật 'Diotima' trong cuốn 'Hyperion' là những văn bản dâng tặng; 'Empedokles' là những bi ca trong loạt những thánh thơ chính. -Tất cả hoàn toàn phức tạp, rắc rối, chúng ta quan sát nó, trông đợi nó như một 'Nhất-Thể / Eins und Alles / All- Unity' là hiện hữu giữa Thượng đế với con người -Chuyển đổi thị giác qua ý niệm cần thiết và vai trò của tư tưởng thi ca là một liên trình nối kết giữa thẩm tích (dialysis) của sự cả quyết là phát sinh những sự cớ khó-hiểu-mới và đưa tới cái gọi là 'quyết định' mà tất cả sự thể đó như quay đầu vào ngõ cụt. Holderlin nhìn đời là một qui thể; để Thượng đế vào trong thơ, đẩy ông vào thực hiện sự tuyệt vọng của cuộc đời. Holderlin đã có một thời gian không dính liền đến với lịch sử văn chương. Có lẽ; ông biết trước những điều đó quá rõ ràng chăng hay ở đây là một trạng thái thông thường của Holderlin hay cái nhìn chủ quan của chúng ta đối với Holderlin ở vào kỷ nguyên nầy.
** Thơ chuyển dịch sang Việt ngữ bởi Lê Đức Lợi (Berlin. Germany) . SÁCH ĐỌC:
ĐỌCTHÊM:
|
|