Vân tán, tuyết
tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết, người biên khảo đất La Sơn
cặm cụi trong thư phòng. Ông xuất thân Sorbonne năm 1936, ngồi
ở cái bàn cổ Louis thứ 16 này từ năm 1952. Với gia sản
một mẻ chữ Nôm, khủng khỉnh cọ đít nồi nhăm câu đối
Hán để hoài nghi chi hồ giả dã rằng một số thơ truyền
khẩu trong dân gian của bà Hồ Xuân Hương là giả, là không
có thật.
Chuyện là đang
vật lộn với bài khảo luận, biên
khảo có tựa đề Bà Hồ Xuân Hương tân biên liệt truyện,
nhưng ông lại đụng chạm đến bà Huyện Thanh Quan. Số là
hai bà cùng làng Nghi Tàm, lại có chung hai bài thơ
Chùa Trấn
Bắc và Cảnh thu cho đến bây giờ trong văn học
sử còn đang tồn nghi. Riêng bà Huyện, những tác phẩm
của bà được truyền tụng qua những bài Đường thi như
Thăng
Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Nhớ nhà, Cảnh chiều
hôm nhiều thành ngữ chữ Hán hơn bài Qua Đèp Ngang.
Vì vậy ý tại
ngôn ngoại của ông là bà Huyện chưa chắc đã đi qua Đèo
Ngang?
Ấy là ông ăn
vẹt ở mòn cho là vậy, nhưng theo ông chủ quan và suy luận
vô căn cứ là hai nguyên nhân dẫn tới sai lầm của nhà biên
khảo. Nguyên nhân chính là sự tin tưởng hoàn toàn vào sách
cũ, thu mình trong thư viện, do không đánh giá, chọn lọc,
không cân nhắc kỹ càng các tài liệu sẽ để lại những
sai lầm cho người đi sau.
Thế nên ông
nghĩ phải về Hà Nội một chuyến để tìm hiểu cho ra nhẽ
về một số nghi vấn văn học. Rõ ra ông muốn cảo mực đề
văn, với ông chẳng qua chỉ là văn chương thiên cổ sự,
đắc thất thốn nhân tâm mà thôi. Ông trộm cho rằng văn
chương là chuyện ngàn đời hay dở tự mình biết. Một công
đôi việc, ông muốn tìm kiếm mồ xanh cỏ lục của bà Huyện
Thanh Quan nay ở đâu? Là người cẩn trọng, ông phải lần
mò cho ra sự thật với bằng chứng cụ thể. Với giác ngoại
biệt truyền bất lập văn tự, nếu như gặp bậc thức giả
nào đấy văn kiến súc tích, sở kiến cao minh để ông kiến
văn sở thị thì hay biết mấy. Vì muốn có một tác phẩm
sưu khảo giá trị, người sưu khảo phải có tinh thần trách
nhiệm với tác phẩm của mình, thu thập dữ kiện trung thực.
Lắm khi phải
khổ công đi tìm hỏi và lắng nghe...đồng cô bóng cậu chẳng
hạn. Và trong cơn đồng thiếp, người biên khảo đất La
Sơn thiếp đi trên bàn kỷ với đồ tứ bảo đang bày sẵn...
***
Qua giấc hương quan
mơ luống mẫn canh dài, tỉnh giấc mơ hoang người biên khảo
đất La Sơn bắt gặp mình đang ngồi đồng ở quán nước
vối bên đường. Dưới gốc cầy bàng già cỗi là một quán
lợp tranh, lơ thơ vài nải chuối ngự, ít bánh đa vừng, dăm
cái kẹo lạc. Ông tự hỏi tại sao mình lại có mặt ở nơi
chốn này và cớ sự gì đẩy đưa bên kia đường lại có
một ngôi đền...!
Đền
Kim Liên
Nhưng ông không
chắc đó là đền Kim Liên thờ chúa Trịnh Giang. Vì cứ theo
như ông gối đầu trên giá sách thì bà Hồ Xuân Hương, tiểu
thiếp của ông Hiệp trấn Trần Phúc Hiển ở Quảng Yên.
Sau khi ông bị tử hình, bà vào chùa tu và sống những ngày
cuối đời ở làng Nghi Tàm, bà từ trần khoảng năm 1822 tại
Cổ Nguyệt Đường bên Hồ Tây. Mộ phần trong khu nghĩa địa
Đồng Táo trước đền Kim Liên, bên cạnh hồ sen. Nay nghĩa
địa đã chìm trong lòng nước Hồ Tây, do việc đắp đường
Cổ Ngư chia hai Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch, vì mực nước dâng
lên một thước.
Nhòm ngôi đền
bên kia đường, ông không thấy có hai con rồng, tức chẳng
phải thờ ông. Mà là hai con lân, hiểu theo nghĩa là thờ bà,
nói dại chứ với tình làng nghĩa xóm, với nghiệp ngão thì
dám dưới mái đền kia thờ bà Đoàn Thị Điểm lắm ạ.
Số là bà theo chồng vào Nghệ An đến đền Sòng thì bà mất
ở đấy. Di hài bà mang về đây, nhưng mộ bà Đoàn Thị Điểm
cạnh Tây Hồ đất lở, đất chùi nay chẳng còn dấu tích
như mộ chí bà Hồ Xuân hương. Nhưng may quá là may, năm 1982,
khi người đạo diễn Trần Văn Thủy quay phim Hà Nội trong
mắt ai đã tình cờ để...mắt tìm được mộ bà ở dưới
một đống rác làng Nghi Tàm. Và ông nghĩ quẩn rằng đi tìm
mộ chí bà Huyện Thanh Quan trong tha ma mộ địa, nào có khác
gì lạc nẻo đường trần vào nghĩa trang Père Lachaise ở Paris.
Khi không trong đầu ông bật ra cái ý nghĩ bà Huyện cũng mất
ở Nghi Tàm.
Thế là ông bước
qua đường để hỏi han trong một ngày nắng ong ong, nắng
chầy chầy.
Vào đến chính
điện nhang thơm đèn thắp, trầm lắng đứng trước mắt
ông là một bức tượng nữ lưu mặc áo dài mầu hồng đào.
Nhưng khuôn mặt thật thanh thoát chẳng giống...bà Đoàn Thị
Điểm cho mấy, dù rằng từ tấm bé đến nhớn, ông chưa
thấy mặt bà lần nào. Lại nữa, không có văn chỉ, sắc
phong, bài vị hương linh nên ông không biết là ai. Mắt đảo
tít như lạc rang, nhìn qua bên trái, va vào mắt ông là một
cụ áo lương khăn lượt, tay phe phẩy cái quạt xếp, đang
lui cui sắp hoa quả. Ông chắc như bắp luộc là...cụ Từ
giữ đền. Ông giả bộ húng hắng ho đánh tiếng, cụ quay
lại. Thêm một lần đập chát vào mắt ông là cái thẻ bài
ngà đeo trước ngực. Trong đầu ông râm ran, nếu nhằm vào
thời một thưở hoàng kim thì ắt hẳn cụ đây là kim tiền
thoát xác của một ông quan. Mà là quan..."cà-mèng". Vì nếu
đeo thẻ bài ngọc hay kim khánh mới là quan quả của triều
đình, không bộ Lễ, bộ Hình thì cũng...bộ binh.
Ông gật đầu
chào cụ, rồi gật gừ hỏi khuê danh bậc nữ lưu đang hòa
nhập hương khói trong một cõi đi về. Cụ nhìn người biên
khảo đất La Sơn như nhìn người cõi trên bằng nửa con mắt
rùa, vung cái quạt ra hiệu cho ông theo cụ ra sau hậu sảnh.
Đi theo cụ, thực mục sở thị qua khuôn mặt tiêu dao, nho
nhã, tóm lược thần thái cũng đâu ra đấy nên ông cho là
tin tưởng được.
Và ông choáng
người vì ngoài hậu sảnh, ngay sân sau là tấm mộ bia của
bà Huyện Thanh Quan. Ông ngẩn ra, vì hóa ra cũng như cụ Nguyễn
Du, mộ bia của bà được tái dựng lại theo tân hình thức,
hậu hiện đại. Thế nên thiếu hẳn nho phong sĩ khí với
chữ Nho, chữ Nôm lưu danh thiên cổ, mà chỉ là hàng chữ
Quốc ngữ: "Phần mộ Bà Huyện Thanh Quan". Ngày sinh ngày mất
còn để trống. Gần đây trong văn học sử cho là bà sinh
năm Ất Mùi 1805, mất nằm Mậu Thân 1848. Sự thể này theo
ông, là một nhà biên khảo văn học cẩn trọng không khả
tín cho lắm.
Ông
đạo đạt sự hiểu biết lỗ mỗ lơ ngơ với cụ áo lương
khăn lượt đang đứng bên cạnh. Cụ phất phơ suy nghĩ, rồi
phẩy cái quạt chỉ về hướng trai phòng. Sau khi thủ lễ
và vấn danh, ông thổ lộ tâm can thổ ngơi ông ở Kẻ Trổ,
huyện La Sơn. Đường họan lộ không ngoài biên khảo, biên
soạn như đếm củ dưa hành đo lu nước mắm vậy thôi. Hay
nói cho đúng ra ông chẳng hẳn là hàn nho mãi tự, mà chỉ
vì nhân sinh quý thích chí, hiểu theo nghĩa là thích thì làm.
Hơn nữa công việc của ông không ngoài thuật nhi bất tác
như người Khổng Khâu, là chỉ thuật lại chứ không sáng
tác. Chính xác hơn thì ngành biên khảo không có tính cách
sáng tạo mà thuộc về học thuật. Cụ gật gù rằng có nghe
ông học trường Bưởi, sau qua Alber Sarraut, rồi đi Tây, xưa
kia có về nước làm việc với hội Truyên bá chữ quốc
ngữ dậy i tờ...rít, với "a" là...quả na này nọ.
Ông mạo muội
tham vấn qúy danh cụ. Cụ khủng khẳng là thời buổi này
không có danh thì quá...dễ. Nghe lạ! Tiếp, người biên khảo
đất La Sơn bộc bạch ông sinh năm 1908, với ý đồ cả hai
đồng canh, đồng tuế để dễ bề xưng hô cho phải lễ nho
gia. Làm như điếc đặc, cụ hỏi ông như con dế trống đi
xa, lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơi, rồi ra ông sẽ dế
mèn phiêu lưu ký về đâu? Ông chột dạ vì thấy cụ cũng
hay chữ...quê mùa quá lắm. Nên ông ngỏ lời là muốn thêm
dữ kiện để biên thuật, biên tác về bà Huyện qua...đồng
cô bóng cậu. Vì ông nghe đâu đó dưới Cảng Phòng, có một
bé con mới lớn đang bì bạch tắm truồng cạnh chum nước,
đột nhiên ngã cái bạch, tỉnh dậy biết mọi chuyện thiên
cơ bất khả lậu và hóa thân thành..."Cô". Đại thể ông
muốn hỏi cô đồng bài thơ Cảnh thu và Chùa Trấn
Bắc phải chăng là của bà Huyện. Nghe xong cụ quơ cái
điếu cày, cái bong bóng lợn xẹp lép bỏ vào cái giỏ mây.
Xong, ới một chiếc "xe con".
***
Ngồi trên xe, ông
lẩn đẩn rằng hoài bão ông đang muốn gặp một nhà bác
học, bác vật, trên thông thiên văn, dưới thuộc lòng địa
lý để kiến văn sở thị thì may quá lại gặp cụ. Nếu
như cụ đây là...cụ Từ thật, thì ông cũng ăn mày chữ
nghĩa cụ ít nhiều về gia thế, gia cang bà Huyện. Nhưng chả
may gì, vì thay đi Hải Phòng cụ nói bác tài ghé đền bà
Chúa Liễu, và nhúm một cô đồng. Rồi xuống bãi Phúc Xà
bên sông Hồng và...xuống thuyền. Ông chột dạ sao xuống
Hải Phòng mà lại đi bằng thuyền! Lại mang cái bong bóng
lợn xẹp lép theo? Bỗng cụ quay sang hỏi phải chăng ông là
người Hà Tĩnh? Khi không ông đâm ra lo lo, vì đi biển mà
cụ đây...lú lẫn thì mất vui.
Thuyền ra cửa
biển xuôi nam...Để thăm chừng, ông dọ dẫm cụ về học
thuật của ngành biên khảo, vì là nhà biên khảo đúng nghĩa
phải có kiến thức rộng rãi, vốn sống, tránh cảm tính
hoặc duy lý. Là nhà biên khảo như ông phải biết lý luận
và luận giải rằng trong sách vở không nói bà Huyện vào
kinh nhận chức Cung trung giáo tập bằng phương tiện
nào? Nhưng theo ông thì bà đi bằng thuyền. Nhưng ông chưa
có bằng chứng đích xác, chỉ là phỏng đoán.
Cụ rất tâm
đắc với ông vì bà Huyện đi bộ hay thuyền thì cũng tới...Huế.
Sau đấy ông bị
say sóng, nằm bẹp dí bao lâu chẳng biết nữa. Tỉnh dậy
đã tới Nghệ An, mượn nỗi nhớ...Paris đèn vàng. Ông buồn
môi ngứa miệng với bài Chiều hôm nhớ nhà không ngoài
ý đồ dò la cụ Từ về nỗi hàn ôn, lữ thứ của bà Huyện,
về văn khảo, văn học này kia, kia nọ:
Chiều trời bảng
lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa
đưa lẫn trống dồn
Gác mái, ngư
ông về viễn
phố
Gõ sừng, mục
tử lại cô
thôn
Ngàn mai gió cuốn,
chim bay mỏi
Dặm liễu sương
sa, khách buớc dồn
Kẻ chốn chương
đài nguời lữ
thứ
Lấy ai mà kể
nỗi hàn ôn
Ông bình thơ luận
phú với cụ là trong 8 câu bài này có 5 câu dùng từ Hán.
Theo ông chỉ một vốc chữ Hán không thôi nhưng có hồn, có
cốt, có tráng qua chút văn chương chữ nghĩa như thế đấy.
Nghe xong, cụ ậm ừ: "Ông giáo dậy i tờ...rít...sao tôi nghe
vậy". Rồi thôi. Thôi thế nào được, ông trộm nghĩ cụ
đây chữ nghĩa ăn đong nên...đong không đầy lọ mực. Ông
bèn gọt cốt vừa giầy với "Ốc:
tù và làm bằng vỏ ốc lớn.
Viễn
phố: bến xa. Cô
thôn: xóm vắng. Ngàn
mai: rừng mai. Dặm
liễu: dặm đường có trồng liễu,
ý nói đường xa. Kẻ chốn Chương
Đài: người vợ đang ở nhà. Lữ
thứ: người đang ở xa quê. Hàn
ôn: lạnh ấm; nỗi hàn ôn là chuyện
tâm tình.
Tâm ý ông muốn
nhắc khéo cụ là thời trước thế ấy, thời này thế đó,
nào có khác gì như cái thời cổ mạch hàn phong cộng nhất
nhân của ông ở bên Tây! Chưa hết, ông tính kể lể cho cụ
nghe các nhà học giả, học thật quái ác với râu ông này
cắm cằm bà kia (1).
Như bài "Chiều hôm nhớ nhà"có tựa đề Cảnh chiều hôm.
Bài
"Cảnh chiều hôm" lại mang tựa Chiều hôm nhớ nhà.
Nhưng nghĩ sao lại thôi, vì Cảnh chiều hôm như là một
dị bản của Chiều hôm nhớ nhà nói ra chỉ tổ
làm cụ rối như canh hẹ thêm. Thêm nữa, cụ Từ thì biết
quái gì về thơ phú với bút khảo. Vớ vẩn cụ lại học
thói nho gia như...ông rằng lập thân tối..."dạ" thị văn
chương thì cũng rõ khổ.
Khổ đâu chưa
thấy đã thấy cụ nhúc nhắc ông muốn hỏi thơ tả cảnh
buổi chiều, hay...buổi sáng thì hỏi cô đồng. Thế là cả
ba ngồi xuống chiếu. Ông bèn hỏi cô đồng phải chăng bài
Cảnh
thu là của bà Huyện Thanh Quan? Hỏi rồi, ông ngáo ệch
nhòm vì trước mặt cô là cái đĩa có cái chân gà khô queo
khô quắt và hai đồng trinh. Cô loáy nhoáy thắp hương, cúi
mặt xuống chiếu khấn âm dương một hồi lâu. Trong tĩnh
lặng, cô cúi đầu xuống lạy cái chân gà quắt queo ba lạy
như tế sống...ông. Ông thuỗn mặt ra vì chả hiểu "đồng
cô bóng cậu" này thuộc Tam phủ,
Tứ phủ của
Đền Phủ Giầy thờ Mẫu địa hay Đền Quốc Oai thờ
Mẫu
thiên đây?
Xong lễ bộ,
đầu lắc lư như...lên đồng. Cô mở mắt nhìn trừng trừng
ông và mở miệng ca trù, cung văn "Cậu bắn súng lục, Cô
bơi thuyền rồng" với bài Cảnh Thu như thế này đây:
Thánh thót tầu
tiêu mấy giọt mưa,
Bút thần khôn
vẽ cảnh tiếu sơ,
Xanh om cổ thụ
tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng
giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang
sơn say chấp rượu,
Túi lưng phong
nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng
ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai
mà chẳng ngẩn ngơ.
Múa may hát hỏng
một hồi xong, cô hầu bóng:
Lạy
bà! Bà ở trên ngàn - Thương con đệ tử trần gian bà về
và
cô dẫn dụ rằng: Xuân Hương đi chơi gặp mưa, vào chơi thăm
làng Văn Giáp, thấy có một chùa xưa, Xuân Hương vào chùa
lạy Phật, rồi đi xem ngoài chùa. Thấy bên chùa có cây đa.
Ngó lên xem thấy xanh om cổ thụ tròn xoe tán, nên...ngẩn ngơ
làm bài thơ trên.
Cô liu điu thêm
riêng bản Đông châu 1917 thì lại khác:
Lạy thánh mớ
bái hai bác chứ. Chứ chuyện là một ngày kia đang qua thu,
giời lún phún dăm ba hạt mưa, hơi ngăm ngăm rét, quan phủ
nhân vô sự, mới sai bày cuộc rượu, cho gọi Xuân Hương
ra cùng ngồi uống rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời,
đương khi chén quỳnh đầy vơi, chiều thu hiu hắt, Xuân Hương
tức cảnh với thơ rằng thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa...
Cô luận giải
là theo văn bản của Antony Landes năm 1892 (2),
bài thơ không có đầu đề. Câu thứ hai Bút
thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ bị
đổi ra là Đố ai vẽ được cảnh
tiếu sơ. Rồi "cô hay cậu" gật
gừ: Thế thì bài này không phải của bà chúa thơ Nôm, cũng
chẳng phải của bà Huyện.
Nghe thủng xong,
ông đực ra như ngỗng đực vì sao cô này biết tiếng Tây
tiếng u như ông. Chạy trời không khỏi nắng là đồng thiếp
nhập vào cô chẳng sai chạy. Vì vậy ông hắng giọng hỏi
về bài thơ
Chùa Trấn Bắc. Cô nhướng mắt, vẫn giọng
ái nam ái nữ:
Xá lầm, xá lú, xá
mê - Trần gian bà về, bát nhã thuyền huê
và cô đắp chữ vá câu:
Bài Chùa Trấn
Bắc mà Landes gán ghép cho bà Hồ Xuân Hương thì câu đầu
Trấn
Bắc hành cung cỏ dãi dầu
bị
sửa thành Ngoài cửa hành cung cỏ
dãi dầu.Ấy đấy, gì mà dính
dáng đến bà chúa thơ Nôm đều bị đảo ngữ lộn tùng phèo
hết. Thêm nữa, chùa Trấn Quốc, năm 1884 vua Thiệu Trị mới
đổi ra là chùa Trấn Bắc. Trong khi bà mất năm 1822. Vẫn
chưa hết, cứ theo như nhà biên khảo Cao Xuân Huy thì bài thơ
có tựa đề Trấn Quốc Tự chép trong Hương Đình
Cổ Nguyệt Thi (3).
Lạy thánh mớ bái hai bác chứ. Chứ "Cô" đây cũng hết biết
luôn.
Thế nhưng ông
chắc như cua gạch một nhẽ với câu chót của bài Chùa Trấn
Bắc Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc
đầu thì chắc chắn không phải
là văn phong của bà Huyện. Thêm nữa, vào năm 1813, trên đường
đi sứ Trung Hoa, qua Thăng Long, chứng kiến những đổi thay
nơi mình đã từng sống suốt tuổi hoa niên, cụ Nguyễn Du
cảm khái: "Thiên niên cự thất thành
quan đạo - Nhất phiến tân thành một cố cung"
tạm diễn nôm là
nhà lớn nghìn năm thành đường cái,
một mảnh tân thành mất cung xưa. Cũng vậy, bà Huyện
Thanh Quan là người Thăng Long (4)chính
gốc, dù bản thân chưa từng sống với nhà Lê, nhưng hít
thở cái tâm thức chung ấy của thời đại, hẳn cũng không
tránh khỏi cái tâm sự hoài Lê. Một lần qua chùa Trấn Vũ,
bà cảm tác Ba hồi chiêu mộ, chuông
gầm sóng - Một vũng tang thương, nước
lộn trời. Vì
vậy ông trộm nghĩ bài thơ của bà Huyện Thanh Quan phải là
bài Đền Trấn Vũ như ở trên, chứ không là bài Chùa
Trấn Bắc như lâu nay thiên hạ sự truyền tụng. Ông ậm
ừ với "Cô" là bà Hồ Xuân Hương khi qua đèo Ngang có câu
đối Chơi Đèo Ngang như sau: "Khéo
khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hòn ngược để đơm người
đế bá - Trách con tạo lừa cơ tem hẻm, chuốt núi xuôi cho
lọt khách cổ kim".
Nghe ông hầu cô
bóng cậu xong, cô chầu văn:
Bà
về bát nhã thuyền huê - Con cõng đệ tử ngồi kề hai bên.
Biết ý, ông và cụ Từ ngồi hai bên cô đồng. Và cô tiếp:
Bà về để thấy cái nhà bác này khéo dệt chuyện. Vì bà
chúa Nôm chỉ theo chồng là ông Hiệp trấn Trần Phúc Hiển
cáng võng tới Quảng Yên là hết đất. Có ăn gan giời trứng
trâu, thân gái dặm trường cũng chả dám hẻo lánh tới đèo
Ngang. Rồi mặt cô đồng như một thánh nữ hiển hiện trên
chín tầng trời với hư trúc niết bàn chẳng đâu xa, vái
sống ông hai lạy, quay về hướng núi lạy bốn lạy và...thăng.
Cô thăng tới...đuôi thuyền vẫn còn đồng bóng tiếp:
Lạy
bà! Bà đẹp chín nghìn - Trăng còn thua sáng, hoa nhìn kém tươi.
Ông hiểu ra bà đây là bà chúa thơ Nôm.
***
Thuyền vượt
sóng qua đất Nghi Xuân của cụ Nguyễn Du thì cũng vừa hết
chuyện cụ Tiên Điền với bà Huyện Thanh Quan. Thuyền vừa
vào địa phận Hà Tĩnh, đất quê của ông và cũng là quê
nội bà Hồ Xuân Hương. Thế là ông được thể lân la qua...Qua
Đèo Ngang:
Bước tới Đèo
Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá,
lá chen hoa.
Lom khom dưới
núi, tiều vài chú,
Lác đác bên
sông, chợ (rợ) mấy nhà.
Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi
miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng
lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình
riêng, ta với ta.
Buồn tình ông
thêm dấm thêm tương rằng bà Huyện Thanh Quan chân cứ thung
thăng mà bước mà không bị vướng vào câu. Tay cứ tự do
vung vẩy mà không ngại bị va vào chữ. Tâm viên ý mã ông
muốn lươn khươn với cụ là bà Huyện tới đèo Ngang thì...đi
bằng thuyền. Như vua Lê Thánh Tông chả hạn, chả là mùa
xuân năm Canh Dần (1471), quốc vương Chiêm Thành là Trà Toàn
đem 10 vạn thủy quân đánh úp Châu Hóa.
Ngày 16, vua Lê Thánh Tông thống lãnh thủy quân đi đánh Chiêm
Thành, trên đường đi gặp mưa, vua có câu thơ răng: "Trăm
vạn quân đi đánh cõi xa � Mui thuyền mưu đội thấm quân
ta". Ngày 28, vua bắt sống Trà Toàn
ở Chà Bàn. Tháng Tư năm ấy, trên đi về thì gặp lúc hoàng
hậu và thái tử đi thuyền nhẹ tới Nghệ An đón vua. Vua
đưa hoàng hậu ngược về Hà Tĩnh và rong thuyền ở đây
cả một mùa hạ.
Ngại cụ nông
choèn, ông muốn cụ thông hanh câu của người xưa rằng nhân
bất học bất tri lý, nôm na là người ít chữ chẳng hiểu
lẽ hay là...hay. Hay hơn hết, ông câu đọng chữ thừa về
bài thơ Qua Đèo Ngang của vua Lê mà ông cho là vua làm
khi ghé Hà Tĩnh để cụ tường:
Bãi thẳm ngàn
xa cảnh vắng teo
Đèo Ngang lợi
bể nước trong veo.
Thà là cúi
xuống cây đòi sụt,
Xô xác trông
lên, sóng muốn trèo.
Lảnh chẳng đầu
mầm chim vững tổ,
Lanh chanh cuối
nũng cá ngong triều.
Cuộc cờ kim
cổ chừng bao nả,
Non nước trông
qua vẫn bấy nhiêu.
Ông định hỏi
han cụ về hồn phách thơ vua Lê với bà Huyện ra sao. Cụ
bỏ ra mũi thuyền đứng, văng vẳng tiếng cụ Từ rơi rớt
lại thì bài thơ của vua Lê chả hay ho gì. Chỉ giống nhau...cái
tên thôi. Thuyền rẽ mũi vào một eo biển sâu vào đất liền
cả mấy cây số. Bên bờ có bãi đất rộng, có làng làm
nghề chài cá. Ông men lại, cụ chỉ trỏ rằng trước kia
nơi đây thuyền chài tránh bão, sau hải thuyền nhà Nguyễn
làm nơi trú quân vì vậy mới có chợ Đồn. Chẳng phải đợi
cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, là nhà biên khảo phải
có cái nhìn tinh tế, vốn sống, không nên thờ ơ, phải biết
lắng nghe. Nghe xong, ông chắc như bắp luộc với cụ là vua
Lê đi thuyền đến đây đã thấy bãi
thẳm ngàn xa cảnh vắng teo, đèo Ngang lợi bể nước trong
veo.
Thêm nữa, nhà
biên khảo phải biết dựa dẫm và suy luận. Vì nhẽ dễ hiểu
di hài bà Đoàn Thị Điểm từ Nghệ An đưa về Nghi Tàm cũng
bằng...thuyền.Thếnên ông càng chắc đinh đóng...thuyền là
bà Huyện cũng đi bằng...thuyền như bà Đoàn Thị Điểm.
Vì chả nhẽ bà Huyện ...đi bộ, còn chỗ ăn chỗ ở, nhiêu
khê lắm chứ đâu có đùa. Ngay cả các thầy đồ xưa khi
vào kinh ứng thí, còn phải mang cá gỗ để giả đò chấm
với nước mắm nữa là. Vì vậy dân gian mới có câu "Bắc
Kỳ ăn cá rô cây" là thế. Thế nên bà Huyện cũng như vua
Lê thấy thà là cúi xuống cây đòi
sụt, xô xác trông lên, sóng muốn trèolà...là
bà Huyện trèo lên đèo Ngang ngắm cảnh đấy thôi.
Ghé chợ Đồn,
cụ Từ sắm sửa ít đồ nhắm và mua rượu Kim Long san vào
cái bong bóng lợn. Xô xác trông lên rồi, rồi cụ rủ cả
hai leo lên đỉnh Đèo Ngang ngắm cảnh trời trăng mây nước
như vua Lê, bà Huyện xưa kia cả mấy trăm năm trước. Nhưng
đồng cô bóng cậu núm xúm trông lên chả muốn...sóng muốn
trèo nên lắc đầu nguây nguẩy vì "Cô" đâu phải là...sóng,
hay là bà Huyện Thanh Quan mà dám leo lên cái dốc thẳng đứng
thế kia.
Leo lên lưng chừng
dốc, cả hai phải tạt vào vệ cỏ của một thẻo đất trống
hình cánh quạt để nhường chỗ cho đàn trâu mươi con đi
qua, trên cổ con to nhất đeo "cái mõ", theo mỗi bước chân
trâu, "chiếc mõ" đong đưa, phát ra tiếng leng keng...leng keng....Ông
ngớ ra sao mõ lại kêu "leng keng". Bèn hỏi. Thì được cụ
cho hay đó là âm thanh của dùi sắt gỏ vào vỏ quả bom, ấy
là dụng cụ tạo âm thanh thông dụng của làng quê thời chiến
tranh với Mỹ. Nom ròm theo chân đàn trâu từ thẻo đất đi
xuống triền dốc thoai thoải đầy ổ gà, ổ voi, sống trâu.
Ông bắt gặp cái làng nằm dưới chân đèo Ngang, có con sông
nhỏ uốn lượn quanh, trên dòng sông đó đây có vài ba con
thuyền nan, mui cong bằng phên tre, nứa, có ông già ngồi buông
cần câu cá. Cạnh bến sông là chợ Đồn, chợ chiều nằm
trên khu đất rộng, mấy túp lều tranh nghiêng ngả, xơ xác...
Khi không người
biên khảo đất La Sơn bám như cua cắp với cụ rằng bài
Qua Đèo Ngang của bà Huyện với
"quốc
quốc" và "gia
gia". Thì có thể khởi đầu từ Trần
Danh An, một di thần nhà Hậu Lê vay mượn hai câu chữ Hán:
"Dạ
thính đỗ quyên minh cuốc cuốc - Nhật văn cô điểu
khiếu gia gia", tạm hiểu nghiã
là đêm nghe đỗ vũ kêu cuốc cuốc,
ngày lắng gà rừng gọi gia gia.
Và người di
thần họ Trần gói ghém tâm sự mình trong thơ:
Giá cô
tại giang Nam
Đỗ quyên tại
giang Bắc
Giá cô minh gia
gia
Đỗ quyên minh
cuốc cuốc
Vi cầm do hữu
quốc
gia thanh
Cô thần đối
thử tình vô cực
Diễn nghĩa là:
Chim giá cô ở
bờ sông Nam,
Chim Đỗ quyên
ở bờ sông Bắc,
Giá cô kêu gia
gia,
Đỗ quyên kêu
cuốc cuốc
Chim nhỏ kêu
tiếng nước nhà
Cô thần đối
cảnh tình man mác
Ông luận giải
từ con đỗ vũ kêu cuốc cuốc, chim
giá cô hay cô điểu tức gà rừng
hoặc gà gô gọi gia gia,
chỉ là hai chữ đối cảnh trong nỗi nhớ nhà. Cụ lại vẫn
cái mửng cũ rằng: Chữ nghĩa cụ lờ đờ như gà ban hôm
nên đâu có biết...con giá cô, con gà gô nó kêu ra làm sao?
Và cứ theo nhẽ cụ thì nhẽ ra hai câu thơ của bà Huyện:
"Nhớ
nước đau lòng con quốc quốc, thương nhà mỏi miệng
cái gia gia"
phải là:
"Nhớ nước đau lòng con
cuốc cuốc, thương nhà
mỏi miệng cái gia gia" mới hợp
tình hợp cảnh theo nhẽ bình thường.
Rồi cụ lựng
bựng hỏi ông là vào thời bà Huyện có hai chữ "quốc gia"
không?
Nghe vậy, ông
phân bua với cụ qua câu nhớ
nước
đau lòng con quốc quốc thì:
"nước" đối với "quốc". Vì Hán tự thì quốc đây là thổ
địa, là một nước. Và câu thương nhà
mỏi
miệng cái gia giathì:
"nhà" đối với "gia". VìHán tự vớigia
đây là nhà, để thành "nước nhà".Còn "con" ở câu trên đi
với "cái"ở câu dưới cũng chỉ là đối chữ thôi. Đó là
thể đối thơ thất ngôn có tên "Gối hạc" như Cao Bá Quát
với một chiếc cùm lim chân có đế, ba vòng xích sắt bước
thì vương.
Tiếp đến, trong
cái đầu đất của ông ăn xó mó niêu với bức thư của
giám mục Pugunier đề ngày mùng 4 tháng Tư năm 1887 có đoạn
sau đây: "...tiếng Việt-nam ghi bằng mẫu tự Âu Châu, kêu
là:
cuốc ngữ". Ấy là từ "cuốc ngữ" xuất hiện lần
đầu tiên vì thời đó chữ Việt theo chữ La-tin chưa có chữ
"q". Mãi đến năm 1838, J.L Taberd trong Nam Việt dương hợp
tự điển mới có một số chữ "q" thay cho một số "c"
để có "quốc ngữ" hay "quốc gia". Cụ Phan Bội Châu trong
Việt
Nam quốc ngữ khảo cho biết thêm: "Trong thời xưa, "chữ
ta" hay là "chữ An nam" chỉ chữ Nho. Hồi đầu thế kỷ nầy,
dân tộc ta nhận ra lần thứ nhứt rằng có một thứ chữ
viết riêng cho tiếng nói của ta, đó là chữ Quốc ngữ. Đối
với chúng ta, Quốc ngữ là tiếng nói của
nước nhà.
Với bà Huyện
Thanh Quan, qua chữ nghĩa văn học bà chỉ được biết đến
mới đây khoảng giữa thập niên 30 và 40 (4)
. Thế nên từ bài thơ chữ Nôm "Qua Đèo Ngang" theo thể Đường
luật thất ngôn, bát cú được một người nào đó vì nhớ
nước đau lòng con cuốc cuốc dịch nghĩa ra con ...quốc
quốc chăng? Nói cho ngay, chính người biên khảo đất La
Sơn cũng không hay biết!
Ấy là chưa kể
tận tín thư bất như vô thư với ông Lê Văn Phát qua tác
phẩm Contes et Légendes du Pays d'Annam bằng chữ Pháp có
văn bản
Le Râle d'eau trong đó cũng có bài thơ Đèo
Ngang rặt chữ Nôm, giống hệt bài Qua Đèo Ngang của
bà Huyện. Le Râle d'eau kể chuyện vua La Hoa nước Chiêm
Thành đem quân đánh Giao Chỉ. Một cận thần tên Quốc hết
lời can gián nhưng vua không nghe. Quốc xin theo để bảo vệ
vua. Cuộc chiến xảy ra ở Đèo Ngang. La Hoa trúng tên
chết. Quốc xông ra lấy xác cũng bị chết theo. Quá uất ức,
hồn của Quốc không siêu thoát được, vất vưởng quanh Đèo
Ngang để tìm xác chủ. Sau Quốc tái sinh là con chim cuốc cất
những tiếng kêu bi ai: "Quốc Quốc, La Hoa, Quốc ở đây,
còn La Hoa ở đâu?".
Ông tính kể
cho cụ Từ nghe nhưng lại thôi vì cụ đâu có biết bài
Đèo
Ngang in ấn năm 1907, từ chuyện dân gian trong thời Chiêm
Thành đem quân đánh Giao Chỉ, ắt hẳn là trước năm Canh
Dần (1471) thời vua Lê Thánh Tông đánh Trà Toàn. Vì vậy bài
Đèo Ngang này có trước hai bài trùng tên là Qua Đèo Ngang
của vua Lê và bà Huyện Thanh Quan.
Qua ải Đèo Ngang
bóng ác tà,
Cỏ cây chen đá,
lá chen ba.
Non cao rải rác
tiều vài lão,
Đất rộng lai
rai xóm mấy nhà.
Nhớ chúa đau
lòng con Quốc-Quốc,
Kêu người mỏi
miệng tiếng Hoa-Hoa.
Dừng chơn ngóng
cổ miền non nước,
Một tấm lòng
riêng ta với ta.
Nhìn lên đèo
Ngang cao ngất trời, ông lắc đầu ngao ngán vì gì mà cao quá
thể vậy trời. Đang ì ạch leo lên, bỗng cụ Từ hỏi ông
sao lại gọi là đèo Ngang, nghe...ngang như cua ấy. Ông cũng
chẳng hơn gì, cái đầu biên khảo lắm chữ của ông cũng
đang bí ngô bí khoai và tự hỏi cớ sự gì chẳng ai bảo
ai, từ vua Lê Thánh Tông, di thần Trần Danh An, dân Chàm mất
nước, đến bà Huyện đều làm thơ cái đèo...ngang ngang chân
núi không một áng mây bay để...rách chuyện cho những nhà
biên khảo. Gần tới đỉnh đèo, ông vừa thở ra khói, vừa
nghĩ quẩn là bà Huyện đi thuyền qua đây, nghe giai thoại
dân gian Chàm với hai câu thơ nguyên thủy: Nhớ
chúa đau lòng con Quốc-Quốc - Kêu người mỏi miệng tiếng
Hoa-Hoa, rồi đi luôn một mạch
tới Huế. Tới kinh đô, bà trau chuốt lại bài Đèo Ngang
để
có bài Qua Đèo Ngang thành bài thơ của mình chăng? Ai
biết đó là đâu, có thể lắm ạ. Và với cảm tính của
người biên khảo đất La Sơn là vậy.
***
Vậy mà tới đỉnh
đèo...Giời ạ, chọc vào mắt ông là cái Cổng Giời.
Ai
mà chẳng hay nhà biên khảo phải có kiến thức và quan sát.
Thế nên người biên khảo đất La Sơn biết ngay cổng này
do vua Minh Mạng xây năm 1833. Trong khi ấy cụ Từ lôi đồ
ăn thức uống ra bày ra ở ngay dười gốc cây cạnh đường.
Cụ làm một hơi rượu Kim Long, bắn vài bi thuốc lào, giọng
cụ âm ỉ hoài đồng vọng về một thời xưa cũ: "Dừng
chân đứng lại, trời, non, nước...". Hóa
ra cụ đồng cảm với ông, nhòm Cổng Giời cổ kínhcó tự
trăm năm kiến trúc kiểu Hy-La Gothic, ông cũng u mặc, u mê
đến...Arch Triump ở đại lộ Champs Élysées nữa là...
Là trong một
ngày tàn, người biên khảo đất La Sơn nhìn xuống chợ Đồn
phía dưới để đi tìm lại hình bóng ngôi làng nằm dưới
chân đèo Ngang lúc nãy có con sông uốn lượn quanh. Và ông
chỉ thấy trên giải nước mờ nhân ảo vài ba con thuyền
đánh cá bé tẻo teo như...cụ Nguyễn Tuân đun nước sôi sủi
đầu tăm, mắt cá. Ông đảo mắt xuống cạnh bến sông, quán
chợ dăm mái nhà tranh nghèo nàn và bé cỏn còn con như mắt
muỗi nên nhòm không ra. Ông lẩn thẩn tự hỏi ông nhòm không
ra thì từ trên cao xa đất gần giời như thế này mà bà Huyện
Thanh Quan làm sao mà...lom ròm thấy "Lom
khom dưới núi, tiều vài chú - Lác đác bên sông, chợ (rợ)
mấy nhà".
Cạn chén hạt
mít, cụ Từ nén viên thuốc lào nhét vào ống điếu, châm
lửa, thổi ra khói. Nhìn xuống chân đèo, cụ râm ran qua khói
thuốc, qua luống đoạn trường:
"Một
mảnh tình riêng, ta với ta...". Ông
lại lan man ai chẳng một lần trong đời với những tiếc
nuối. Cụ cũng thế, thế nhưng ông nhủ thầm: Một mảnh
tình riêng nào đây? Nhưng không tiện hỏi...
Hướng theo ánh
mắt cụ nhìn xuống chân đèo thoai thoải dốc. Ông không
nhìn thấy cỏ cây chen đá, lá chen hoa, mà chỉ thấy
lá cây đang đổi dần từ xanh tươi sang xanh thâm...Hoa, hoàn
toàn không có, thêm một lần ông cũng chẳng gặp lại...tiều
vài chú, mà là những người gánh củi như những cái bóng
nhập nhòa từ trên rừng về thôn xóm. Đâu đó có tiếng
chim kêu xao xác...như bìm bịp kêu nghe mệt mỏi, não nề.
Đứng trên đỉnh đèo, giữa đất và trời, ông làm như nghe
tiếng cuốc kêu mà hoang tưởng mình là bà Huyện nghe chim
da da...kêu như cuốc gọi hồn với nỗi niềm thương nhà nhớ
nước. Niềm hoài cổ đang chầu chực sẵn với thân phận
lưu vong của ông, gần nửa đời người ông mới có mặt
ở nơi chốn này, vậy mà không như bà Huyện Thanh Quan. Người
biên khảo đất La Sơn nghe cuốc kêu chỉ nghe ra là: " dà dà...bát
cát quả cà...bắt cô trói cột..., dà dà...bát cát quả cà...bắt
cô trói cột...".
Như đi guốc
vào bụng ông, cụ Từ chép miệng cái bép là thổ ngơi ông
ở Hà Tĩnh, ở Tây lâu quen thói nên đụt ra, đâu có hay chim
da da hay đa đa còn gọi là "gà cơm cát" vì tiếng gáy của
nó nghe: "chát cha chát... chát cha...cha". Còn chim cuốc hoặc
chim giẽ chúng sinh sống dưới ruộng nước, đầm ao... chứ
ở đèo Ngang với núi rừng khô không khốc đây làm gì có.
Cái giống chim này cứ đến mùa hè kêu cả đêm rồi chết
rạc, người Bắc gọi là chim cuốc. Người Trung kêu...chuốc
chuốc. Rồi người sau đổ vấy cho bà Huyện cải biên
nhớ nước đau lòng con chuốc chuốc, thành...con cuốc
cuốc, sau với tiếng Quốc ngữ hóa thân là...con quốc
quốc!
Qua lời cụ Từ,
ông biết để đó là đèo Ngang không...chim cuốc. Và ý tại
ngôn ngoại của ông là bà Huyện chưa đi qua đèo Ngang để...nhớ
nước đau lòng con quốc quốclà đúng quá rồi.
Tuy nhiên ngồi
dưới gốc cây, ông cũng thầm mến mộ bà Huyện Thanh Quan
trong niềm hoài cảm với khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ, xanh
um cổ thụ tròn xoe tán. Ông tức cảnh sinh tình với trắng
xoá tràng giang phẳng lặng tờ, bầu dốc giang sơn, say chấp
rượu. Ông làm nhẵn một chấp rượu, vân vo bi thuốc lào
như hạt thóc lép và rít một hơi. Ấy vậy mà say đứ đừ.
Đầu óc ông cứ váng vất về kẻ chốn chương đài, người
lữ thứ, lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Thế nên ông
hàn ôn với cụ rằng:
- Cứ theo sở
học bấy lâu qua những học giả, biên tác thì bà là
một nữ sĩ thời Nguyễn Sơ, người phường Nghi Tàm, huyện
Thọ Xương gần Tây Hồ. Bà là học trò của danh sĩ
Phạm Quý Thích (1760-1825), cụ là tiến sĩ đời nhà Lê
và cũng là bạn thân của thi hào Nguyễn Du. Bà là vợ ông
Lưu Nghị, người Huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Ông
đỗ cử nhân thời Minh Mạng, là tri huyện Thanh Quan,
nên người đời gọi bà là bà huyện Thanh Quan.
Sau bà được
vua Tự Đức
vời
vào kinh dậy học.
Mới vào kinh một tháng thì ông Lưu
Nghị mất khi 43 tuổi.
Cầm ly rượu
và để đó, cụ tư lự, đăm chiêu:
- Tôi nghe hơi
nồi chõ là bà Huyện cùng làng Nghi Tàm với bà Hồ Xuân Hương
nhưng nhỏ tuổi hơn. Khi thân phụ bà chúa thơ Nôm dậy học
ở Nghi Tàm rồi mất, bà tiếp tục dậy học và bà Huyện
là học trò bà Hồ Xuân Hương, thưa Thầy.
Người biên khảo
đất La Sơn như muốn nhẩy nhổm lên:
- Thì sách vở
ghi chép rành rành bà Huyện là học trò của cụ Phạm Quý
Thích mà, thưa cụ.
Cụ Từ đong
đưa chén rượu theo từng chữ từng câu:
- Thôi thì Thầy
hãy để tôi hầu chuyện giai thoại Sâm cầm của cho
Thầy nghe nhá. Sâm cầm là một loại chim quý, rất hiếm,
chỉ sống ở vùng ven Hồ Tây. Vì vậy lệ quy định nhà Nguyễn
rằng mỗi năm phải nộp năm chim sâm cầm, thiếu một con
chim phải phạt vạ. Dân làng Nghi Tàm khốn khổ vì tiệc "tiến"
sâm cầm. Nhưng nhờ bà Huyện đang ở kinh đô dâng đơn lên
vua bỏ lệ này. Việc thành, làng ghi tên bà Huyện vào Ngọc
Phả trong đền thờ bà Đoàn Thị Điểm, ngay trang đầu có
tên bà. Lúc bà về làng, quan trên ra lệnh tìm người viết
đơn. Nhưng chắt ngoại của cụ Phạm Quý Thích, cụ Phạm
đây là thày dạy thân phụ bà là cụ Nguyễn Lý. Người chắt
làm tri huyện Hoàn Long đương thời, vì trọng cụ Nguyễn
Lý, nên đã ỉm chuyện này đi.
Nhiễu chuyện
nữa là cụ Phạm Quý Thích lại là người tình của bà chúa
thơ Nôm. Cụ Tam Nguyên Trần Bích San khi viết Xuân Đường
Đàm thoại về cụ Nguyễn Du..."sống lại 49 năm sau" cùng
Tiến sĩ Phạm Quý Thích, mỗi người làm một bài phúng Hồ
Xuân Hương và luận bàn về chữ tình, tài, mệnh, giai nhân.
Cả hai đều là người tình của bà Hồ Xuân Hương, thưa
Thầy.
Ông ớ ra vì
cụ đây là người thông tỏ mọi chuyện, biết cả giai thoại
của bà Huyện. Hay cụ là cụ Từ...thật cũng nên. Thế nên
những canh cánh bấy lâu, ông mang ra...bắt cua bỏ rọ:
- Vậy chứ giai
thoại Phú cho Nguyễn Thị Đào là của bà chúa thơ Nôm
hay bà Huyện đây?
Cụ Từ ngần
ngừ, rồi lẫm đẫm:
- Nói là giai
thọai là của bà chúa thơ Nôm thì chỉ mới có năm 1963, khi
người sau tìm ra tập Lưu Hương ký của bà vì bà là
thiếp của Trần Phúc Hiển làm quan ở Quảng Yên. Vì bận
việc quan, thỉnh thoảng ông ủy thác cho bà chuyện công văn
sổ bộ quan nha. Còn giai thoại về bà Huyện thì có từ thưở
tám hoánh nào rồi. Không những thế còn nhiều hơn nữa. Như
giai thoại "Làm...trâu" chẳng hạn. Chuyện quan Huyện đi vắng,
bà ấy thay chồng đăng đường. Một ông hương cống tới
xin mổ trâu để giỗ bố. Bấy giờ mùa màng thất bát, triều
đình hạn chế mổ trâu trong dịp tế lễ khao vọng để giữ
trâu canh tác. Bà ấy ngại ngùng, nhưng trước sự năn nỉ
của ông Cống, và cảm động trước hiếu hạnh của ông.
Bà hóm hỉnh cầm bút phê vào đơn: "Người ta thì chẳng được
đâu - "ƯØ " thì ông Cống...làm trâu thì làm". Biết
bà Huyện chơi chữ để lỡm mình, nhưng vì được việc nên
ông Cống cũng vui vẻ ra về.
Còn giai thoại
Phú
cho Nguyễn Thị Đào thì nhân một hôm ông Huyện lại đi
vắng, có một người đàn bà còn trẻ, tên Nguyễn Thị Đào
đến cửa quan kiện người chồng phế bỏ việc gia đình,
hắt hủi vợ nhà, nên xin quan trên cho mình được bỏ chồng.
Nhận thấy lá đơn lời lẽ rất cảm động, thương cho người
thiếu phụ chịu lỡ dở, bỏ cả xuân xanh trong cảnh cô đơn,
vì thương cảm...Bà ấy đã thay chồng phê vào lá đơn bốn
câu thơ:
Phó cho con Nguyễn
Thị Đào
Nước trong leo
lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng: Xuân
bất tái lai
Cho về kiếm
chút kẻo mai nữa già!
Hay chuyện, chồng
cô Đào kiện lên quan trên, ông Huyện bị cách chức. Nhưng
sao đó ông lại được phục hồi, và thuyên chuyển về Bộ
Hình thăng chức Lang trung. Cứ theo mấy nhà học giả, học
thuật như Thầy...thuật lại thì nhờ có tài văn chương lỗi
lạc. Bà ấy được
vua Minh Mạng
vời vào cung phong chức Cung trung giáo tập. Ấy tôi chỉ biết
thế thôi:
Tôi chỉ..."biết"
là cái năm bà ấy vào cung để dạy phi tần, công chúa thì
vua Minh Mạng đã...chết từ thưở tám kiếp nào rồi, thưa
Thầy.
Người biên khảo
đất La Sơn lựng khựng trông thấy vì cụ Từ già rồi nên
đốc chứng hay sao ấy, lúc này cứ gọi bà Huyện là "bà
ấy". Chưa kịp hỏi cho ra nhẽ thì hốt nhiên cụ cười nhẹ.
Cụ cười thật
ấm áp và giọng cũng đầm ấm chẳng kém:
- Thôi thì trăm
sự cũng chẳng dấu gì Thầy...
Ngừng lại một
chút, cụ vỗ vai ông thân mật:
- Tôi là ông
huyện Thanh Quan đây.
Người biên khảo
đất La Sơn đang ngớ ra, đang chộn rộn chàng ràng thì...cụ
Từ. Ấy quên, thì...quan Huyện làm như khó nghĩ lắm rồi
từ tốn:
- Thầy không
dậy tôi cũng biết làm biên khảo phải đọc sử ký, địa
lý để tìm ra sự thật, chứ không phải là làm cho rối rắm
thêm. Nhưng tôi phải đưa ra dữ kiện để Thầy hiệu đính
dùm là cứ theo các nhà học giả, học thật thì tiện nội
tôi ở kinh một tháng. Trong khi tiện nội tôi rời Nghi Tàm
đúng...một tháng sau thì tôi mất.
Vì vậy tôi cũng
không biết tiện nội tôi có đi ngang qua Đèo Ngang hay không?
Thưa Thầy.
Như có gì suy
nghĩ lung lắm, quan Huyện chậm rãi:
- Thầy cứ xem
lại Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 1884
của nhà Nguyễn viết toàn bộ lịch sử nước nhà tới đời
Lê. Sử thi ghi chép cả chuyện bà Nguyễn Thị Lộ, tiểu thiếp
của cụ Nguyễn Trãi được vời vào cung làm Lễ nghi học
sĩ.
Hoặc giả nhưĐại Nam Thực
Lục, ngay cả Quốc Sử Di Biên được vua Tự Đức
phụ đính và phê chuẩn năm 1851. Thám hoa Phan Túc Trực còn
viết đôi chút tiểu sử về bà Hồ Xuân Hương. Vậy mà không
sử sách nhà Nguyễn nào đề cập đến tiện nội tôi? Thế
mà những nhà biên khảo đồng nghiệp với Thầy đã ngụp
lặn với chữ nghĩa là: "...Nhờ có tài văn chương lỗi lạc,
bà Huyện Thanh Quan được vua Tự Đức vời vào cung và phong
chức Cung trung Giáo tập để dạy phi tần, công chúa...".
Quan Huyện chép
miệng một cái tách:
- Thì như Thầy
đã biết đấy, muốn là nhà biên khảo đúng nghĩa...như Thầy
đây thì phải có tâm hồn nhậy cảm, tránh duy lý, không dễ
dãi với những dữ kiện, phải cân nhắc kỹ càng những tài
liệu chính xác hay không để người sau không bị lầm lẫn?
Quan Huyện thở
ra:
- Mà vua Tự Đức
nào có...con cái đâu! Thưa Thầy.
Dặn dò xong, quan
Huyện đứng dậy, đi qua Cổng Giời, thăng về giời trong
u u minh minh...
***
Phần viết thêm:
Loạy nhoạy đến một tháng, người
biên khảo đất La Sơn mới trở lại Paris. Trong thư phòng,
nay trên tường có treo cái điếu cày và cái bong bóng lợn.
Trên cái bàn cổ Louis thứ 16, sáng trưa chiều tối ông ngồi
rị mọ với thiên cổ kỳ bút về bà Huyện Thanh Quan. Xuân
sinh, hạ trưởng và chẳng đợi đến thu liễn, đông tận,
vào một ngày nắng hạ với sinh có hạn, tử bất kỳ... Vừa
lúc viết đến đoạn: Dặn dò xong...quan Huyện đứng dậy...
thì người biên khảo đất La Sơn thiếp đi và cũng ...thăng
theo quan Huyện trong một ngày ít nắng nhiều mây.
Bữa ấy nhằm vào tháng 3 năm 1966.
Chót chét cho rằng ông không quay
quả về chốn nhân gian này nữa. Rồi lớ quớ thế nào không
hay, ông rơi tõm vào lỗ hổng của thời gian...Trở về cõi
thế tục trong một ngày nắng chầy chầy, ngỡ rằng đã xong
cái nợ chữ nghĩa, người biên khảo đất La Sơn thanh thản
bước từng bước trên lối mòn xưa cũ. Cũng mấy hôm rày
bên Tây Hồ, dưới gốc cầy bàng là một quán lợp tranh,
có ít bánh đa vừng, dăm cái kẹo lạc. Ở đấy có hai người:
Một đồng cô bóng cậu, một cụ áo lương khăn lượt. Họ
thầm thì bảo nhau rằng Kinh thi có câu bách quế quy
vu kỳ thất, rằng trăm năm rồi cũng về nhà. Thế nên họ
đang ngồi đợi ông, nếu ngày mai không mưa thì nắng...thì
họ và ông sẽ mầy mò chuyện cụ Nguyễn Du viết Truyện
Kiều vì bà Hồ Xuân Hương.
Nghe vậy, ông bước đến gần,
ngồi xuống và rì rầm bảo họ ông đang theo chân cụ Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu khiêng văn lên bán chợ giời, ngoài
cái điếu cày, cái bong bóng lợn xách đến đây để làm
vài cữ. Ông còn khuân theo bài biên soạn, biên chép có tựa
đề dài ngoằng ngoẵng:
Bà Hồ Xuân Hương tân biên
liệt truyện.
Thạch
trúc gia trang
Hạ chí, Quý
Tỵ 2013
Ngộ Không Phí
Ngọc Hùng
Nguồn: Ngô Sĩ Liên,
Nguyễn Đức Cung, Trần Đăng, Khoa
Phạm Trọng Chánh,
Nguyễn Vĩnh Tráng, Lê Xuân Quang.
***
Chú thích:
Xưa văn nhân làm
thơ truyền tay nhau thường không có tựa đề, những nữ lưu
trong văn học không lấy bút hiệu và họ thường được gọi
bằng tên tục. Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị
Hinh. Chữ Hán "Hinh" là "Hương" để thành tên. Bà Hồ Xuân
Hương qua tập
Lưu Hương ký thì Hương là tên gọi và
trong bài Mời trầu, bà tự ví "Này của Xuân Hương
đã
quệt rồi".
Vì vậy lâu nay
những uẩn khúc thi phẩm của hai bà (1)
phải
chăng có thể vì tên "Hương"?
Ngoài ra người
sau hay đổi tựa đề thơ của hai bà.
Như trong tậpHương
Đình Cổ Nguyệt Thi của bà Huyện Thanh Quan có bài thơ
tựa đề Trấn Quốc Tự. Trong khi bài thơ nôm cũ nhất
Chùa
Trấn Bắc mà Antony Landes (2)
trích lục từ nguồn nào chẳng ai hay lại gán ghép cho bà
Hồ Xuân Hương. Vào cuối thế kỷ 19, Antony Landes người Pháp
sang nước ta thời họ chiếm Nam kỳ. Ông học tiếng Việt
ở trường Thông Ngôn nên giỏi tiếng Việt, ông dịch cả
Nhị
độ mai. Khoảng năm 1892, ông được bổ làm đốc lý ở
Hà Nội. Có thể ông là người Pháp đầu tiên ra Bắc tìm
kiếm các tác phẩm của người Việt, rồi thuê hai ba người
chép lại. Những gì ông gom góp do con cháu ông Landes
cho Société Asiatique lưu trữ lại. Gốc tích đầu tiên
về văn học mà sau này được in ra và được
gọi là thơ
Hồ Xuân Hương là ở trong ấy!
Riêng bài thơ
về Thăng Long (4) có
hai tên Thăng Long thành hoài cổ và Thăng Long hoài
cổ. Bài này dựa theo Hương Đình Cổ Nguyệt Thi
lúc đầu có tên "Quá phu quân cố lỵ cảm tác" diễn nghĩa
là
qua chốn chồng làm quan cũ. Có nguồn cho rằng bài
Quá
phu quân cố lỵ cảm tác là bà Huyện hoài Lê qua cố đô
Thăng Long, qua hình ảnh ông Huyện Thanh Quan. Vì Gia Long (1802)
đổi tên là Bắc Thành (bà Hồ Xuân Hương thuộc thời Gia
Long), sau Minh Mạng (1831) đổi là Hà Nội (bà Huyện Thanh Quan
thời Minh Mạng).Vì Thăng Long là cố đô, nên bà không cho
là "thành" như Bắc Thành. Nên với bà Huyện Thanh Quan phải
là: Thăng Long hoài cổ...
Với sách vở
tam sao thất bản thì: Bà Hồ Xuân Hương, sớm nhất có
Xuân Hương thi tập thời Minh Mạng. Sau này còn có nhiều
bản chép tay như Quốc Văn Tùng Ký soạn vào thời Tự
Đức, đến đầu Duy Tân thêm Xuân Hương thi sao, Tạp thảo
tập, Quế Sơn thi tập, Xuân Hương thi vịnh, Liệt truyện
thi ngâm, Lĩnh Nam quần hiền văn thi văn diễn âm tập và...Hương
Đình Cổ Nguyệt Thi. Uẩn khúc ở chỗ, khi những nhà sưu
tầm làm công việc sưu tập thơ bà chúa thơ Nôm thì Hương
Đình Cổ Nguyệt Thi (3)
của bà Huyện Thanh Quan lại nằm trong danh mục trên.
Ấy là chưa kể
tất cả chỉ có tên của thi tập chứ không có nguyên bản
của thi phẩm trong ấy. Lại nữa, những người đi sau cho
thêm vào những bài thơ không rõ xuất sứ của ai đó theo
ý của mình. Trừ Lưu hương ký với 52 bài thơ
gồm 24 bài chữ Hán và 28 bài chữ Nôm, nhưng cho đến nay
chỉ một số bài được dịch ra chữ Quốc ngữ vì
Lưu
Hương ký bị thất lạc. Văn bản thơ Nôm thất truyền
của bà Hồ Xuân Hương trong kho sách Hán Nôm ở Hà Nội cũng
chỉ còn được 3 bản khắc ván in và nhiều bản chép tay
khác nhau, tổng cộng khoảng trên dưới 20 văn bản Nôm.
Cho đến nay,
theo các nhà làm văn học hay biên khảo thì bà Hồ Xuân Hương
có từ 84 đến 213 bài. Và bà Huyện Thanh Quan có từ 5 đến
8 bài. Phải chăng vì ít thi phẩm, nên bà Huyện chỉ được
biết đến vào khoảng thập niên 30 qua Cao Xuân Huy, con của
Cao Xuân Hạo, nhờ tìm được trong thư tịch củaCao Xuân Dục
(1842-1923), chánh chủ khảo trường thi Nam Định 1897 thời
Đồng Khánh (Trần Tế Xương là ông tú "rốt bảng" trong khoa
thì này). Cao Xuân Dục đã tìm thấy trong tủ sách gia đình
Trần Xuân Hảo ở Nam Định tập Hương Đình Cổ Nguyệt
Thi (3).
Vì thế bà Huyện
Thanh Quan cũng mới chỉ biết đến sơ sài qua Dương Quảng
Hàm qua Việt văn giáo khoa thư vào năm 1940(4).
Theo những bài viết của những nhà biên khảo thì bà Huyện
Thanh Quan chỉ để lại 7 bài thơ Nôm, viết theo thể Đường
luật thất ngôn, bát cú. Một số nhà biên khảo khác
lại cho rằng bà Huyện Thanh Quan chỉ có 3 bài: Thăng Long
Hoài Cổ, Chiều Hôm Nhớ Nhà, Qua Đèo Ngang còn những
bài khác được xếp vào diện tồn nghi. |