Tiếc
rằng cách đây hai trăm năm, Hồ Xuân Hương không như nàng
Tiểu Thanh nhờ một họa sĩ truyền thần vẽ lại chân dung
nàng truyền lại cho đời sau. Tiếc rằng không có một nhạc
sĩ yêu nàng như Fédéric Chopin mười năm yêu George Sand truyền
lại cho đời những Dạ khúc, những Sonate, Préludes bất tử.
Tiếc rằng phải trăm năm sau Léon Busy (Fondation Albert Kahn)
năm 1915, mới mang chiếc máy ảnh chụp kính màu thô sơ, chụp
giai nhân, tài tử, thắng cảnh, đời sống Hà Nội. May mắn
thay có Tốn Phong đã mê Hồ Xuân Hương viết 31 bài thơ tình
. Một tập thơ viết về một người đã hiếm có ngày xưa,
mà lại là một người đẹp « thơ thần », « thơ quỷ, «
tài cao nhả phượng thế gian kinh », « bà Chúa thơ Nôm »,
cả dân tộc Việt Nam khao khát tìm kiếm nàng, truyền tụng
về nàng, những bậc thi hào như Nguyễn Du, danh sĩ Phạm Đình
Hổ, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh, Trần Phúc Hiển.. từng
đảo điên vì nàng. Hai trăm năm qua bao bút mực, bao nhiêu
tranh cải, tìm kiếm, chờ đợi, thật là một tập thơ quý
giá. Thơ Tốn Phong có thể sánh với những bài thơ Đêm, Alfred
de Musset đã viết cho George Sand. Một mối tình đau khổ tuyệt
vọng mỗi lời thơ như một lưỡi kiếm vạch trên không trung,
còn rực sáng những giọt máu long lanh. Mỗi lời thơ như con
chim bồ nông rút ruột, rút máu cho con ăn, như người thi sĩ
rút tinh huyết, khổ đau mình để dọn cho người đời
bữa tiệc trần thế.
Từ
nay lòng khổ vì thương nhớ,
Gối
lạnh phòng không nỗi đoạn trường.
(Bài
19)
Gặp
lại Phi Mai còn nhớ nhỉ ?
Phong
trần đày đọa một tình đau.
(Bài
31)
Tập
thơ Tốn Phong và bài tựa Lưu Hương Ký chép tay do học giả
Trần Thanh Mại phát hiện năm 1963 tại Thư Viện Khoa Học
Trung Ương Hà Nội, đóng lẫn với bài Du Hương Tích động
ký của Chu Mạnh Trinh. Năm 1995 ông Bùi Hạnh Cẩn mới in lại
phần chữ Hán toàn bộ thơ Tốn Phong trong tập Hồ Xuân Hương.
Thơ chữ Hán chữ Nôm và giai thoại, nxb VHTT. Hà Nội 1995.
Công trình ông Bùi Hạnh Cẩn thật đáng hoan nghênh, công bố
không dấu diếm những gì mình có, để mọi người từ bốn
phương trời có thể cùng nhau nghiên cứu, bàn bạc, không
ngại ngùng bản dịch của mình có nhiều điểm còn sai. Điều
này khác biệt với thái độ ông Đào Thái Tôn đã dành độc
quyền bản chính Lưu Hương Ký suốt 40 năm, và còn 5 bản
khác do học giả Trần Thanh Mại mướn người sao chép trước
khi mất năm 1964, cũng không biết ai cất dấu nơi đâu ? May
thay ông Đào Thái Tôn đã trả lại cho Viện Văn Học trước
khi mất năm 2011. Nếu không thì tất cả các công trình nghiên
cứu Hồ Xuân Hương qua Lưu Hương Ký cũng mơ hồ như thơ
Hồ Xuân Hương truyền khẩu. Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương
đã thoát khỏi số phận Hý phường phả lục của Lương
Thế Vinh, người 'mượn' nó không biết là ai có thể
đã mất và con cháu đã vất đi cái di sản quốc gia quý báu.
Có khi vì công bố quá chậm, việc đọc văn bản trở nên
khó khăn hơn. Trường hợp Hồng Hà phu nhân di văn của Đoàn
Thị Đỉêm, bà Nguyễn Kim Hưng (phu nhân Gs Nguyễn Huệ Chi)
tìm ra đã hơn 40 năm qua, vì không công bố sớm, mấy chục
bài thơ trào phúng chữ Nôm cổ giờ đây, không ai đọc được,
vì người đọc được là GS Hoàng Xuân Hãn tại Pháp
đã qua đời năm 1996.Từ Đoàn Thị Điểm đến Phan Huy Ích
khoảng cách 60 năm, là một cuộc thống nhất đất nước
sau 250 phát triển hai miền đàng trong, đàng ngoài riêng biệt.
Chữ Nôm từ kinh đô Phú Xuân của Vua Gia Long, đã trở thành
mẫu mực cả nước, những cách viết, cách đọc chữ Nôm
đời Lê Trịnh bị chìm vào quên lãng.
A.
31 bài thơ tình Tốn Phong
Thơ
Tốn Phong gồm 31 bài thơ chữ Hán: 11 bài viết năm 1807 sau
khi hỏng thi Hương trường Nghệ lần thứ nhất và 20 bài
viết năm 1814 sau khi hỏng thi Hương trường Nghệ lần
hai. Thơ Tốn Phong óng ả, bóng bảy trử tình, thơ cho giai
nhân thì treo giải nhất chẳng nhường cho ai, nhưng chốn trường
quy, thơ để thử ý chí tài năng trị nước bình thiên hạ,
thì ta hiểu vì sau chàng lận đận thi cử hai phen không đỗ.
Tôi dịch thơ 31 bài này, và sau đó sắp xếp từng câu thơ
theo đề mục, để tìm ra cuộc đời Hồ Xuân Hương, quang
cảnh, sức khỏe, sinh hoạt cuộc sống.. Từ thi ca đến thực
tế cuộc đời, những câu thơ làm đẹp cuộc sống, nhưng
dù sao nó cũng phản ảnh cái nhìn của người đương thời
với Hồ Xuân Hương..
Bài
I: Tốn Phong viết: Từ Hồ Kim Âu trước cửa Quốc
Tử Giám, tôi không phải là anh thuyền chài ở Vũ Lăng, mà
cũng gặp được nàng tiên cõi Đào Nguyên. Nhà nàng nằm hướng
Đông đối diện với trời xanh Hồ Tây, mưa móc điều hòa.
Nàng viết những bài thơ tuyệt vời như mây khói lên, như
khúc hát Bạch Tuyết của Sư Khoáng đời Chiến Quốc khó
ai họa được. Tư cách nàng xuất chúng, thanh nhã không ai
ví bằng. Tài văn chương nàng làm thế gian kinh ngạc, nàng
là tiên nữ Ngọc Nữ được trời sai xuống trần. Tỏa ngát
hương mai khi cùng nàng nâng chén rượu mừng gặp gỡ. Tôi
ngờ gặp nàng vốn sẵn nhân duyên tiền định tự kiếp nào.
Trước
nhà cửa Giám, hồ Âu Vàng,
Tìm
đến Đào Nguyên, chẳng Vũ Lăng.
Đối
mặt trời xanh mưa móc thuận,
Ngâm
thơ tuyết trắng khói mây dâng.
Hơn
đời phong cách ta sao ví,
Nổi
tiếng văn chương tiên xuống trần.
Tỏa
ngát hương mai nâng chén rượu,
Gặp
nàng ngờ trước sẵn nhân duyên.
Thơ
chữ Hán Tốn Phong tặng Hồ Xuân Hương,
Nhất
Uyên dịch thơ.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt
Kim
Âu hồ thượng Giám môn tiền,
Phi
Vũ Lăng nhân tự đắc nguyên.
Tọa
đối thanh dương điều vũ lộ,
Ngâm
thành bạch tuyết khởi vân yên.
Xuất
quần phong cốt thanh ư ngã,
Kinh
thế văn chương giáng tự thiên.
Phao
khước mai hương tần cử tửu,
Đối
quân nghi thị cựu hàn duyên.
Chú
thích:
Kim
Âu, tên hồ ở phường Bích Câu nay đã lấp, khoảng đường
Cát Linh gần Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Vũ
Lăng: Trong Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm, ông chài ở Vũ Lăng
tìm ra lối vào Đào Nguyên.
Bạch
Tuyết: và Dương Xuân hai khúc hát do Sư Khoáng làm ra,
theo Tống Ngọc cả nước chỉ 2, 3 người họa được.
Bài
2: Trong tao đàn đã xuất hiện vị thần thơ, là người
đồng quận duyên may được quen biết nàng.
Nàng
vốn dòng dõi gia đình vọng tộc quan Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống,
họ Hồ nhiều đời làm quan đứng đầu triều đình.. Nàng
xinh đẹp tuyệt vời như tiên giáng trần. Từ ngàn xưa vùng
Hoan Châu vẫn nổi tiếng nhiều anh tài tuấn kiệt. Nàng là
ngôi sao Khuê kết tụ của văn học mười phân vẹn mười.
Nên nhớ 99 ngọn Hồng Lĩnh quê hương của nàng, nàng là tinh
anh của núi sông đó. Nàng là hoa mai xinh đẹp nhất chiếm
cả mùa xuân cố kinh thành vua Lê.
Tao
đàn xuất hiện vị thơ thần,
Đồng
quận duyên may được biết nàng.
Hoàng
các vốn gia đình vọng tộc,
Hồng
nhan tiên giới thác sinh chăng ?
Châu
Hoan thuần túy từ ngàn trước,
Khuê
tú tinh hoa vẹn thập phần.
Chín
chín đỉnh non Hồng có nhớ,
Hoa
Mai xuân sắc nhất kinh thành.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt
Tao
đàn đàn thượng xuất tao thần,
Đồng
quận tương phùng hỉ đắc quân.
Hoàng
các khấu lai chân vọng tộc,
Hồng
nhan nghi thị thác sinh thân.
Hoan
phong thuần túy tri thiên cổ,
Khuê
tọa tinh hoa hào thập phần.
Cửu
thập cửu phong tằng ức phủ,
Mai
hoa độc chiếm đế thành xuân.
Chú
thích:
Tao
đàn: do chữ Ly Tao, tác phẩm của Khuất Nguyên( 300 năm trước
Tây lịch) thời Chiến Quốc, nói lên nỗi buồn bực một
trung thần nói phải, làm tốt mà vua không nghe theo, để đến
nước mất nhà tan.Sau chữ tao được dùng để thay thế những
từ văn nhã hay văn thơ xuất sắc, tao đàn là đài thơ,
nơi tụ họp những nhà thơ xuất sắc.
Hoàng
các: gác vàng, chỉ gia đình quyền quý, tích Đỗ Như Hối
làm Tể Tướng nhà Đường ba chục năm, chăm lo cho dân cho
nước.Hoàng các tam thập niên, thanh phong tiên vạn cổ. Gác
vàng ba mươi năm mà bia thơm để muôn đời.. Ám chỉ họ
Hồ nay có quan Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống từng đứng đầu triều
đình để tiếng thơm đời sau.
Hoan
phong: những phong cách cao quý của người vùng Nghệ An, Hà
Tĩnh.
Sao
Khuê: ngôi sao văn học.
Bài
3 Mùa xuân làng Nghi Tàm bay bay khắp mặt đất hoa
tàn rụng. Đi đến Đình Mai hỏi thăm chủ nhân. Nàng hiện
ra như người tiên trong mây đang múa khúc Nghê Thường trong
giấc mơ Vua Đường Minh Hoàng lên chơi cung trăng. Trong bóng
trăng nghe như tiếng nhạc Quân Thiều khúc nhạc trời cảnh
tượng thái bình.Một bầu mây nước nhuần nhụy đóa hoa
lòng. Mắt nàng sáng như các vì sao, từ vạn dậm các vì sao
như mới làm long lanh đôi mắt nàng. Nhìn suốt cầu vòng mà
nhớ tới nỗi niềm của Ngưu Lang, Chức Nữ. Ta đã đến
gặp nàng không cần cầu vòng, như thiên hà đã phí phạm
hết một dòng sông bạc.
Bay
bay ngập đất rụng hoa tàn,
Thẳng
hướng đình mai hỏi chủ nhân.
Nghê
Vũ người tiên mây giáng hiện,
Quân
Thiều thiên khúc bóng ca trăng.
Một
bầu mây nước hoa nhuần nhị,
Vạn
dậm sao trời mắt sáng trong.
Nửa
ánh cầu vòng Ngưu Nữ nhớ,
Thiên
hà hoang phí một dòng ngân.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Phồn
hoa mãn địa lục phân phân,
Khẳng
hướng mai đình nhận chủ nhân.
Nghê
Vũ tiên dung vân thượng kiến,
Quân
Thiều thiên khúc nguyệt trung vân.
Nhất
soang vân thủy tâm hoa nhận,
Vạn
lý tinh hà nhãn kính tân,
Vọng
đoạn hồng kiều Ngưu Nữ tứ,
Thiên
hà phí tận nhất giang ngân.
Chú
thích:
Nghê
Vũ: tích Vua Đường Minh Hoàng nằm mơ thấy lên chơi cung trăng,
gặp các tiên nữ, mặc áo xiêm bảy sắc như cầu vòng, múa
hát rất đẹp. Vua nhớ lại đặt ra khúc Nghê Thường dạy
cung nữ múa hát.
Quân
Thiều: tên khúc nhạc nói lên cảnh tương thời thái bình.
Ngưu
Nữ, tích Ngưư Lang, Chức Nữ. Chức Nữ con gái Ngọc Hoàng
Thượng Đế, yêu chàng chăn trâu, bị trời chia ly bắt thành
Sao Hôm và Sao Mai ở hai bên bờ sông Ngân Hà, mỗi năm gặp
nhau một lần vào ngày mồng 7 tháng 7 âm lịch, mùa này quạ
rụng lông đầu để bắt nhịp cầu Ô Thước cho hai người
gặp nhau, nước mắt rơi xuống trần gian thành mưa ngâu, sau
đó lại phải xa nhau.
Bài
4 Một dòng sông bạc làm gì vô ích, vì
muôn thuở Ngưu Lang thành người bất tử. Thương mày liễu
xanh xanh càng thêm yêu vầng trăng. Mùi hương Mai thoang thoảng
làm thêm mãi yêu mùa xuân.. Hứng về cũng thấy thơ sinh quỷ,
sầu đến rồi mới hay rượu có thần.. Muốn hỏi nơi Cao
Đường người đoán mộng cho vua Sở Trang Vương có đoán
được Vua giao hoan với Thần Nữ Vu Sơn mấy lần. ? Phải
chăng Hồ Xuân Hương đã đọc cho Tốn Phong nghe những bài
thơ đùa nghịch của nàng, những bài thơ có quỷ như bài
Thiếu nữ ngủ ngày, Cái Giếng... nàng không chép trong Lưu
Hương Ký nên Tốn Phong uống rượu, nóng máu thấy rượu
có thần, nên đùa nghịch lại với nàng.
Thiên
hà hoang phí một dòng ngân,
Muôn
thuở chàng Ngưu, bất tử nhân.
Mày
liễu xanh xanh thêm mến nguyệt,
Hương
mai thoang thoảng mãi yêu xuân.
Hứng
về lai thấy thơ sinh quỷ,
Sầu
đến rồi hay rượu có thần.
Ướm
hỏi Cao Đường ai đoán mộng,
Gió
mưa Đài Sở được bao lần ?
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt :
Thiên
hà phí tận nhất giang ngân,
Chung
cổ Ngưu Lang bất tử nhân.
Thanh
triển liễu si thiên ái nguyệt,
Hương
phiêu mai cốt tối nghi xuân.
Hứng
lai dã giáo thi sinh quỷ,
Sầu
khứ phương tri tửu hữu thần.
Vị
vấn Cao Đường tri mộng khách,
Sở
Đài phong vũ ký phiên tân.
Chú
thích:
Cao
Đường còn gọi là Dương Đài nơi Vua Sở Tương Vương nằm
mơ thấy giao hoan cùng thần nữ núi Vu Sơn.
Bài
5. Tốn Phong đến thăm Hồ Xuân Hương tại Cổ Nguyệt
Đường. Phía Nam xa xa có dãy núi, phía Bắc là sông Hồng,
một dòng sông Tô Lịch nho nhỏ chảy qua (dòng sông chảy
qua hào thành Thăng Long và ra sông Hồng cửa Hà Khẩu, Hàng
Buồm, bị lấp vào đầu thế kỷ 20). Tốn Phong phải đi đò
qua sông, đầu thuyền Tốn Phong còn chèo đẩy ánh trăng, đã
thấy chủ nhân Cổ Nguyệt Đường, Xuân Hương Hồ Phi Mai
đứng trước nhà mai nở trắng xóa. Gió sương từ xưa, nàng
đã trao cho ai, còn ta còn trôi nổi như bèo nước hôm nay giờ
sẽ biết ra sao ? Nàng như thần hoa rất yêu mến hiếu khách,
thôi thì đàn, sách đến đâu, cuộc sống ở đó.
Phương
Nam núi biếc, Bắc Hồng Hà,
Một
dãi sông Tô nho nhỏ qua.
Du
khách đầu thuyền, trăng tỏa sáng,
Chủ
nhân trước viện, trắng mai hoa.
Phong
sương tự cổ xui ai đến,
Bèo
nước giờ đây lại nỗi ta.
Rất
quý thần hoa yêu mến khách,
Sách
đàn đâu cũng áo cơm nhà.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt.
Quần
sơn Nam khống, Bắc khâm hà,
Nhất
mạch Tô giang tiểu tiểu qua.
Du
khách trạo đầu, minh nguyệt sắc,
Chủ
nhân đình thượng, bạch mai hoa.
Phong
sương tự cổ giao thùy thụ,
Bình
ngạnh như kim nại ngã hà.
Tuyệt
ái hoa thần, thiên hiếu khách,
Cầm
thư tùy xứ tức sinh nha.
Bài
6. Cây bàng đơn côi, che khuất ánh trăng chiếu sáng nhà
giai nhân, nhà vắng, chén rượu nàng mời hương vị nồng
ấm thanh tao. Lá ngô đồng (cây vông) rơi từ cành biếc, chim
phượng múa trong sân. Lối trúc lá vàng bay, chim hoàng oanh
chuyền trên cành. Man mác đêm thu gầy gốc mai lạnh, bên bờ
hồ Tây đìu hiu rung rinh cành liễu. Khách thơ chợt thấy hồn
mộng say sưa, từ giả nàng về còn thấy cây bàng đơn côi
che khuất ánh trăng chiếu sáng nhà Hồ Phi Mai.. Ông Bùi Hạnh
Cẩn trong Thơ Hồ Xuân Hương Văn Học Hà Nội 1995, sđd tr
152 dịch là non côi. Cảnh Hồ Tây không có núi nào che khuất
Cổ Nguyệt Đường cả, tôi cho rằng ông đã lầm chữ phong
là cây bàng với phong là núi. Ánh trăng khuất sau cây bàng
đơn côi chiếu sáng nhà Xuân Hương, đúng hơn. Trong bài thơ
Trương Kế: Giang phong ngư hỏa đối sầu miên, cây bàng bên
sông và ngọn đèn thuyền chài đối sầu trong đêm. Bài thơ
cho thấy trước nhà Cổ Nguyệt Đường có cây bàng lớn,
có cây vông, lối vào có trúc xanh Bến trúc Nghi Tàm, bên bờ
Hồ Tây có liễu rũ, nhà nàng có nuôi đôi chim phượng hoàng
đất, gọi là Cái Cắng, một giống trĩ đủ màu, từ Nghệ
An một người bà con đã mang tặng nàng, trong văn bản Landes,
Hồ Xuân Hương có bài thơ: cái Cắng đánh nhau.
Cội
bàng trăng khuất chiếu hoa đình,
Nhà
vắng hương nồng vị rượu thanh.
Biếc
rụng cành ngô, sân phượng múa,
Vàng
bay lối trúc ngõ chuyền oanh.
Đêm
thu man mác mai gầy vóc,
Bến
nước đìu hiu liễu rũ cành.
Thoáng
tỉnh hồn mơ say mộng khách,
Cội
bàng trăng khuất chiếu mai đình.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Cô
phong ẩn nguyệt tiếu hoa đình,
Tỉnh
viện hương nồng tửu vị thanh.
Ngô
lạc bích chi đình vũ phượng,
Trúc
phiêu hoàng diệp kính xuyên oanh.
Thu
dương dạ sắc hàn mai sấu,
Ngạn
lược phong điều tế liễu khinh,
Du
giác mộng hồn tao khách túy,
Cô
phong ẩn nguyệt tiếu mai đình.
Bài
7 Một dãi sông Tô Lịch giặt vạt áo, nàng
ngồi đối mặt với trăm hoa. Tốn Phong hứng thổi sáo tiếng
ngân vút như đến sao Bắc Đẩu. Hứng nhập vào ly rượu
cùng nàng bàn chuyện thơ xưa và này. Xuân Hương gảy đàn,
tiếng đàn mùa thu mát viện thanh vắng. Mộng chuyền giấc
mơ hóa bướm mùa xuân vào chăn. Đã chán cảnh phố xá Nam
phố phồn hoa, khi lạnh khi nóng đổi thay. Nàng về Cổ Nguyệt
đường có riêng một ánh trăng. Xuân Hương đã chán bán sách,
nàng dẹp tiệm về lại Cổ Nguyệt Đường, trở lại nghề
dạy trẻ. Nhà nàng có trồng nhiều hoa để bán như các gia
đình làng Nghi Tàm, Ngọc Hà. Tốn Phong thổi sáo và Xuân Hương
đàn nguyệt cầm, cây đàn được yêu chuộng thời bấy giờ.
Xuân Hương được Nguyễn Du dạy đàn.( Khúc Hoàng tay Nguyệt
còn chờ dạy. Thơ Hồ Xuân Hương). Tiếc rằng tiếng sáo
Tốn Phong không được ký âm để truyền lại đời sao, để
hiểu thế nào tiếng sáo ngân vút tận đến sao Bắc đẩu.
Một
vốc sông Tô giặt áo khăn,
Nàng
đây đối mặt giữa hoa ngàn.
Thần
vào sáo ngọc tung sao đẩu,
Hứng
nhập ly quỳnh chuyện cổ kim.
Đàn
chuyển tiếng thu vang tỉnh viện,
Mộng
chuyền xuân bướm ngát thơm chăn.
Lạnh
nồng ngán nỗi phồn hoa lắm.
Riêng
tựa đình mai một ánh trăng.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Nhất
cúc Tô giang học tẩy khâm,
Dữ
quân đối tọa bách hoa thâm.
Thần
lai ngọc quản phi tinh đẩu,
Hứng
nhập quỳnh bôi tống cổ kim.
Cầm
đệ thu thanh lương tỉnh viện,
Mộng
chiền xuân điệp đáo hương khâm.
Viêm
lương đệ sái phồn hoa thái,
Tuyệt
tự đình mai nhất viện âm.
Bài
8. Gió mát từng cơn quét hoa đào hồng rơi rụng dưới đất,
tứ buồn vương vấn hai người nhìn nhau không nói. Năm nay,
nơi Cổ Nguyệt Đường còn vui tình phượng laon gặp gỡ,
rồi mai đây trên bước đường thi cử công danh, như cá vượt
vũ môn hóa rồng biết sẽ ra sao.Khí thiêng trời đất đôi
ta cùng hát xướng, ngâm thơ. Duyên lạ mây mưa mặc cho hồn
mơ mộng. Đừng nói nhớ nhau với biết nhau, chỉ thấy hôm
nay lòng cùng ấm chung chén rượu nồng .
Gió
mát từng cơn quét ngấn hồng,
Tứ
sầu vương vấn biếng lời chung.
Năm
nao nhà nguyệt vui tình phượng,
Sao
biết đường mây vượt cửa rồng.
Linh
khí đất trời cùng hát xướng,
Mây
mưa duyên lạ gửi hồn mong.
Nhớ
nhau với biết nhau đừng nói,
Chỉ
thấy hồn chung chén rượu nồng .
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Thanh
phong vận vận tảo hoa ngân,
Sầu
tứ trù mâu lãn đối ngôn.
Nguyệt
viện đương niên hài phượng lữ,
Thiên
cù hà nhật hóa long môn.
Càn
khôn linh khí chung ngâm phách,
Vân
vũ kỳ duyên phó mộng hồn.
Mạc
thuyết tương tư dữ tương thuyết,
Đồng
tâm đãn giác tửu bôi ôn.
Chú
thích:
Long
Môn: Cửa rồng, cá chép vượt vũ môn hóa rồng, chỉ việc
thi đỗ làm quajn.
Càn
khôn: trời đất.
Bài
9 Muôn tía ngàn hồng, sắc mùa xuân đã tới, u buồn
việc gì mà khách sầu bi ? Trong mây, ánh trăng sáng tỏa lồng
cây quế, bên đình người hoa chỉ thích hoa mai. Sầu vướng
đầu mày ngài gầy với tuyết, Hương theo ngọn bút nở với
xuân. Lưu tên lại cho ngày tháng tìm ý thơ mới. Một nụ
cười nàng cũng đủ cho lòng sướng vui. Bài thơ này cho thấy
Tốn Phong si tình nặng, mùa xuân tới nàng buồn chi trong muôn
sắc hoa, nàng hãy cười lên, một nụ cười nàng cũng đủ
cho lòng chàng vui sướng.
Muôn
tía ngàn hồng xuân sắc tới,
Việc
gì buồn bã, khách sầu chi ?
Trong
mây nguyệt chiếu, trăng lồng quế,
Bên
quán người hoa chỉ thích mai.
Sầu
vướng nét mi gầy với tuyết,
Hương
vào ngọn bút nở xuân tươi.
Lưu
danh ngày tháng thơ tìm đến,
Một
thoáng hoa cười đủ sướng vui.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Vạn
tử thiên hồng xuân sắc lai,
U
sầu hà sự khách tâm ai ?
Vân
gian nguyệt sắc tần phiêu quế,
Đình
thượng hoa nhân độc hiếu mai.
Sầu
nhập mi phong đương nguyệt sấu,
Hương
tùy bút nhụy hướng xuân khai.
Lưu
danh tha nhật cầu di án,
Nhất
tiếu quần thoa diệc khoái tai.
Bài
10. Khi làm quan ở đền đài, hay sống giang hồ nay đây
mai đó đều có thời. Khi thời đến thì như cánh chim Bằng
bay cao vút chín tầng trời. Gặp gỡ nàng, người có con mắt
xanh nhìn đời lưu lại những bài thơ mùa xuân. Hẹn hò với
lòng son trong ánh nắng chiều tà. Chèo thuyền bằng gỗ quế
bơi theo dấu chim hạc đen, tôi như chàng Lưu Thần từ Đào
Nguyên nơi mây biếc trở về. Nơi trường đình từ biệt,
chia tay nếu nàng còn nhớ, hãy ghi lấy địa chỉ tôi, phía
Nam Châu Hoan Nghệ Tĩnh, huyện Thạch Hà là quê tôi.
Bài
10
Đền
đài sông nước cũng theo thời,
Thời
đến Bằng bay chín cửa trời.
Gặp
gỡ mắt xanh xuân hát khúc,
Hẹn
lòng son sắc nắng vàng trôi.
Ruổi
rong huyền hạc, bơi chèo quế,
Từ
cõi hoa đào mây biếc trôi.
Từ
biệt trường đình nàng hãy nhớ :
Hoan
Nam, huyện Thạch chốn quê tôi.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt
Lăng
miếu giang hồ các hữu thì,
Thì
lai bằng cách cửu thiên phi.
Tao
phùng thanh nhãn lưu xuân khúc,
Đề
đính đan tâm đối tịch huy.
Quế
trạo mỗi tòng huyền hạc tế,
Đào
châu nguyên tự bích vân quy.
Trường
đình biệt hậu như tương ức,
Ký
thủ Hoan Nam, Thạch ẩn nhi.
Chú
thích:
Thanh
nhãn: mắt xanh, người có mắt suy xết việc đời. Theo Tấn
Thư, Nguyễn Tịch người đời Tấn khi tiếp khách, nếu người
tốt, tri kỷ mắt ông xanh, nếu là người xấu thì mắt ông
trắng.
Huyền
hạc: theo truyền thuyết, chim hạc sống hai nghìn năm thì lông
biến thành màu xanh, lại sống nghìn năm nữa thì lông biến
thành màu đen gọi là huyền hạc tượng trưng người ẩn
dật. Ngày nay thì ta biết chuyện này không đúng vì Hạc có
nhiều nơi trên thế giới có giống lông trắng, lông xanh,
lông đen, lông hồng, lông xám, có giống pha nhiều màu.
Trường
đình: đình trạm, trên đường cái quan, năm dậm thì dựng
cái đình nhỏ gọi là đoản đình, mười dậm thì dựng cái
đình lớn gọi là trường đình, để ngựa trạm và người
công sai đưa công văn,, người đi đường dừng chân nghỉ
ngơi. Trường đình Trung Quốc có từ thời Đường, có lẽ
do ý kiến của Trần Huyền Trang sau khi đi Ấn Độ về kể
chuyện những đình trạm thời A Dục Vương.
Bài
11 Lại viết thêm. Dịu vợi núi sông mấy dậm đường.
Giữa phố phường hỏi thăm chốn đình mai (Cổ nguyệt Đường).
Hoa đào tự ta không phải là không có duyên phận. Tơ liễu
với ai lại rất có tình, Khách ghen chịu sao được điều
oán nhỏ nhặt. Nhớ người, ngàn nụ cười làm nhẹ tấm
lòng. Chị Hằng hiểu được riêng tấm lòng thương nhớ,
xin tỏa ánh trăng sáng xuống Cổ Nguyệt Đường.
Dịu
vợi giang sơn mấy dậm đường,
Phồn
hoa thăm hỏi chốn mai đình.
Đào
hoa ta cũng không duyên phận,
Tơ
liễu ai kia rất có tình.
Sao
để khách ghen điều nhỏ nhặt.
Ngàn
nụ cười vui nhẹ tấm thân.
Hằng
Nga hiểu được lòng thương nhớ,
Cổ
Nguyệt Đường xin tỏa ánh trăng.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Thiều
đệ giang sơn vạn lý trình,
Phồn
hoa mạch thượng phong mai đình.
Đào
hoa tự ngã phi vô phận,
Liễu
nhứ ư nhân thái hữu tình.
Đố
khách na kham quan tiểu hận,
Hoài
nhân thiên tiếu nhất thân khinh.
Hằng
Nga hội đắc tương tư ý,
Cổ
Nguyệt đường tiền tả nhất minh.
Năm 1814. Tốn Phong sau khi thi hỏng trường Nghệ năm 1813
lại trở ra thăm Hồ Xuân Hương, viết tiếp 20 bài thơ tặng
nàng. Tôi giải nghĩa, và dịch thơ đường luật theo nguyên
tác.
Bài
12 Đã quen biết nhau ở Phố Nam thành Thăng Long gần
10 năm trước, nơi hiệu sách gần chùa Lý Quốc Sư Nguyễn
Minh Không, thuở ấy Xuân Hương ở xa ngôi nhà nàng sinh trưởng
làng Nghi Tàm. Năm nay 1814, gặp lại nàng ở Cổ Nguyệt
Đường phía Bắc thành Thăng Long, tình xưa như tơ liễu vẫn
còn vấn vương như sương khói. Bao năm qua nàng như cành mai
phất phơ trong đông tàn tuyết lộng, đời nàng nhiều phong
trần. Từ khi từ biệt lòng Tốn Phong vẫn thương nhớ như
nước mênh mông liền trời. Gặp nhau đây nơi nhà nàng thắp
sáng ngọn đèn bạc, cùng kể nhau nghe chuyện lưu lạc sông
hồ, hò hẹn duyên nợ xa xưa.
Nam
Phố mười năm xưa đã quen,
Hoa
đào độ ấy cách nguồn tiên.
Năm
nay gặp lại nơi thành bắc,
Tơ
liễu vẫn còn sương khói vương.
Điểm
nửa tình xuân mai tuyết lộng,
Muôn
trùng nỗi biệt nước trời chen.
Nhà
lan là lúc chong đèn bạc,
Kể
chuyện giang hồ hẹn mối duyên.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Nam
phố tương tri thập tải tiền,
Đào
hoa do tự cách tiên nguyên.
Bắc
thành tương kiến kim niên cảnh,
Liễu
nhữ hoàn ưng đối dã yên.
Bán
điểm xuân tình mai dục tuyết,
Vạn
trùng lý tứ thủy như thiên.
Hữu
thời lan thất khiêu ngân chúc,
Cộng
thoại giang hồ đính túc duyên.
Chú
thích:
Nam
Phố: Phố Nam thành Thăng Long.
Lan
thất: nhà lan, nơi phụ nữ ở
Túc
duyên: mối duyên xưa từ trước.
Ngân
chúc: đèn bằng bạc thắp bằng dầu lạc. Thời Hồ Xuân
Hương thường dùng đèn bằng đất sét, hay đèn sứ, có bấc
bằng sợi bông vải, ngâm trong dầu lạc (đậu phọng), chỉ
có nhà khá giả mới dùng đèn bạc chạm khắc công phu.
Bài
13. Xuân Hương Hồ Phi Mai như mai lạnh gặp tuyết
xúc động tinh thần, đối mặt với Mai càng thầy yêu nàng
nhiều hơn. Thư từ không truyền đạt hết được ý, bèo
mây phiêu bạt làm sao hiểu được giấc mộng trong lòng. Tình
ta thăm thẳm như nước Hồ Tây sâu ngàn thước, soi gương
cũ nàng có gầy hơn trước. Tốn Phong muốn hỏi nàng buồn
vui thế nào, nàng vẫn vui vẻ lạc quan rằng tháng tới là
tết đến.
Hàn
mai như tuyết động tâm thần,
Đối
mặt mai càng thương cố nhân.
Cá
nhạn sao truyền, thư ngoại ý,
Bèo
mây nào biết mộng trong lòng.
Đầm
trong nước cả sâu ngàn thước,
Gương
cũ gầy soi dáng mấy phần.
Khách
đến buồn vui tha thiết hỏi,
Nàng:
trong tháng tới lại sang xuân.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Hàn
mai như tuyết động tinh thần,
Trùng
đối mai hoa bội ái quân.
Ngư
nhạn bất truyền thư ngoại ý,
Vân
bình nan tín mộng trung thân.
Thanh
đàm lãng thủy thâm thiên sích,
Cổ
kính si nhan sấu kỷ phần.
Khách
lộ bi hoan hà xứ vấn,
Kinh
văn lai nguyệt thị tân xuân.
Chú
thích
Ngư
nhạn: giấy viết thơ ngày xưa có in hình con cá, hay chim nhạn
đầu trang.
Hồ
Tây còn gọi là Dâm đàm, vì mùa Đông đầy sương mù ngày
xưa đơn vị thước đo bằng gang tay không chính xác, ngàn
thước chỉ là một cách nói Hồ Tây sâu.
Bài
14 Mai lạnh không ghen với màu trắng sương móc xa
gần, Nàng đẹp yêu kiều sánh với các mỹ nhân trong sách
sử. Tốn Phong cởi ngựa hay đi xe ngựa từ Nghệ Tĩnh ra,
trên đầu ngựa đã thấy mùa xuân hoa nở rộ. Nghe văng vẳng
như tiếng đàn Phượng Cầu Kỳ Hoàng của Tư Mã Tương Như
từ giữa khóm trúc vang vang. Bạn cũ nơi chốn phồn hoa, gặp
nhau lại kính e như là mới gặp, tình giao du sống chết có
nhau tưởng như mới tạm quen. Nàng trịnh trọng tiếp đãi
ân cần như dịp tốt không phụ lòng trời. Tình Tốn Phong
như núi màu xanh gấm vóc. Lòng Phi Mai như nước thành gương
bạc soi núi biếc.
Ghen
chi mai lạnh trắng sương ngần,
Một
vẻ yêu kiều sánh mỹ nhân.
Đầu
ngựa tin xuân hoa sắc điểm,
Phượng
cầm tự khóm trúc vang thanh.
Phồn
hoa bạn cũ như ngày mới,
Sinh
tử giao tình tưởng mới thân.
Tình
trọng duyên may trời chẳng phụ,
Tình
non như gấm, nước như gương.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Hàn
mai vô đố bạch tân phân,
Nhất
dạng kiều tu bạn mỹ nhân.
Mã
thủ xuân tùy hoa lý đắc,
Phượng
cầm thanh tự trúc trung văn.
Phồn
hoa cựu lữ kinh sơ kiến,
Sinh
tử giao tình tích tạm thân.
Trịnh
trọng nhai kỳ thiên bất sảng,
Tình
sơn như cẩm thủy như ngân.
Chú
thích:
Phượng
cầm: trai tỏ tình với gái, Tích Tư Mã Tương như tỏ tình
với Trác Văn Quân gảy đàn cầm mà hát rằng: "Phượng
chừ, Phượng chừ, về quê làng ngao du bốn biển tìm chim
Hoàng. " thường gọi khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng.
Bài
15. Tình Tốn Phong như núi non màu xanh gấm vóc, phản
chiếu xuống lòng Hồ Phi Mai như gương bạc. Chủ nhân Cổ
Nguyệt Đường tiếp đãi trịnh trọng, ân cần. Nàng như
vầng trăng không thích để đêm đen tối, nàng chìu lòng khách
không bỏ lững câu chuyện làm buồn ai bao giờ. Nàng như hoa
trời chúa xuân đến đâu nẩy mầm xuân đến đó. Lòng Tốn
Phong như khách hò hẹn chốn Đào Nguyên cùng tiên nữ,
Chốn Vu Sơn vô tâm làm bài phú thần sông Lạc. Phi Mai nhắc
lại chuyện cũ than thở lúc từ giả Tổng Cóc trở về Thăng
Long, dời nhà ra mở hiệu sách, một mình lận đận sinh con,
khốn khổ vô cùng.
Tình
non như gấm nước như gương,
Tình
trọng tao phùng với chủ nhân.
Trăng
cũ vẫn thường soi mỗi tối,
Hoa
trời khắp chốn nẩy mầm xuân.
Đào
nguyên hò hẹn cùng tiên nữ,
Vu
giáp nào hay hát Lạc thần.
Mai
lạnh vẫn thường than nỗi khổ,
Chốn
dời hoa mới nẩy thêm cành.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Tình
sơn như cẩm, thủy như ngân,
Trịnh
trọng tao phùng hữu chủ nhân.
Cổ
nguyệt sinh thời ưng bất dạ,
Thiên
hoa tùy xứ khả vi xuân.
Đào
nguyên hữu ước minh tiên lữ,
Vu
giáp vô tâm phú Lạc thần.
Tối
thị hàn mai tự ái khổ,
Thiên
cư trùng lệnh nhất chi tân.
Chú
thích:
Vu
giáp: Tống Ngọc viết bài phú Cao Đường về chuyến đi chơi
đầm Vân Mộng của Sở Tương Vương, gặp Thần nữ núi Vu
Sơn và giao hoan cùng nàng. Lúc từ biệt nàng nói: Thiếp xin
sớm làm mây, tối làm mưa sớm tối dưới Dương Đài.
Lạc
Thần: Thần sông Lạc, con sông ở tình Hà Nam, Trung Quốc,
tương truyền con gái Vua Phục Hy chết đuối nơi đây hóa
thần. Tào Thực đời Ngụy (con Tào Tháo) qua đây ngủ mơ
gặp cô gái thần sông Lạc, nhìn ra lại hóa hoàng hậu họ
Nhân, trước vợ Viên Đàm sau lấy Tào Phi tức Ngụy Văn Đế.
Bài
16 Sông Tô Lịch có rộng là bao mà hóa ra giải Ngân
Hà. Tốn Phong đêm qua ngủ mộng thấy mình qua cầu như Ngưu
Lang gặp Chức Nữ. Khách văn của nàng Hồ (Cổ Nguyệt) chỉ
nhớ suông, nhưng nàng phận má hồng phải chịu nhiều cảnh
long đong. Một khúc đàn nơi bến Tầm Dương thấy thương
nàng nhiều. Bao năm dài Tốn Phong như Tô Vũ bị đày ngoài
Ải Bắc. Nay trở về cùng nắm tay hương mai thơm đồng ngoạn
cảnh, nhớ đến động Bích Đào ngày trước nay đã xa.
Sông
Tô gang tấc hóa Ngân Hà,
Lòng
nhớ qua cầu giấc tối qua.
Trăng
cũ khách văn suông nỗi nhớ,
Hoa
xuân má thắm phận sa đà.
Tầm
Dương một khúc thương lòng lắm,
Ải
Bắc bao năm biết nỗi ta.
Tay
nắm hương mai, cùng ngoạn cảnh,
Bích
Đào ngày cũ bóng mây xa.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Tô
Giang chỉ sích hóa Ngân Hà,
Tạc
dạ giang kiều tiểu mộng qua.
Cổ
nguyệt văn nhân không phiến diểu,
Xuân
hoa hồng liễm phận sa đà.
Tầm
Dương nhất khúc lân khanh nhĩ,
Bắc
Tái liên miên nại ngã hà.
Thủ
bả hương mai đồng ngoạn cảnh,
Bích
Đào tha nhật hựu vân xa.
Chú
thích:
Tô
Giang: sông Tô Lịch chảy vào hào thành Thăng Long và chảy
ra cửa Hà Khẩu (Hàng Buồm)
Tầm
Dương: Bài Tỳ Bà hành của Bạch Cư Dị khi trấn nhậm Hàng
Châu viết trên bến Tầm Dương, Hàng Châu nơi có nhiều thanh
lâu, kỹ nữ.
Bắc
Tái: tích Tô Vũ đi sứ Hồ bị bắt đi chăn dê ở Ải Bắc
18 năm.
Bích
Đào: Đào Nguyên, nơi Lưu Thần, Nguyễn Triệu gặp tiên nữ
Ngọc Chân.
Bài
17 Vầng trăng đơn côi khuất nửa rèm soi
hoa ngoài sân, dáng Phi Mai gầy trong gió thanh thanh. Lá cũ cây
ngô đồng còn mơ hồn chim phượng, ngoài ngõ cây mận tiết
lạnh cuối đông bóng con chim oanh chuyền cành. Một cành hoa
lê trắng như tuyết cắm trong bình còn hờn oán mùa thu. Khách
sầu nơi quán vắng lòng nghe sương khói như nhẹ lên cành
liễu. Bâng khuâng giữa mộng lệ ướt khăn, vầng trăng cô
đơn nửa rèm vẫn soi bóng ngàn hoa trong sân.
Trăng
lẻ nửa rèm hoa bên đình,
Mai
gầy cung điệu, gió thanh thanh.
Ngô
đồng lá cũ mơ hồn phượng,
Ngõ
hạnh lạnh tàn chuyển bóng oanh.
Thu
oán một bình lê tuyết nhạt,
Khách
sầu quán vắng liễu sương dâng.
Bâng
khuâng giữa mộng khăn nhòa lệ,
Trăng
lẻ nửa rèm hoa bên đình.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Cô
nguyệt bán liêm hoa ngoại đình,
Sấu
mai cung đệ hiểu phong thanh.
Ngô
đồng cựu diệp tân tường phượng,
Lý
hạnh hàn dư tảo chuyển oanh.
Thu
oán độc bình lê tuyết đạm,
Khách
sầu không quán liễu yên kinh.
Du
du mộng lý khâm tùy lệ,
Cô
nguyệt bán liêm hoa ngoại đình.
Bài
18 Đến thăm nàng thời gian qua nhanh quá, vừa ngồi bên
gối đó lại phải về. Trong Cổ Nguyệt Đường con đường
thơ của nàng lắm gian nan gió bụi phong trần. Nàng không khỏe
lắm, sức khỏe nàng như những người đẹp đào hoa từ xưa
đến nay. Nàng ngồi lặng im chìm đắm trong giấc mơ. Bên
trời có khách ra đi gió thổi bồng mái tóc, Canh vắng nàng
có lạnh nửa chăn không ? Lòng ước mơ nơi chốn Chương đài
sau cơn mưa, bóng trăng lồng bóng hoa. (Tốn Phong ước mơ được
ôm ấp nàng như bóng trăng lồng bóng hoa)
Vừa
cùng gối khách, lại dời chân,
Viện
cũ đường thơ lắm bụi trần.
Sức
vóc đào tơ như tự cổ,
Mộng
mơ mai ít nói làm thinh.
Cuối
trời khách gió bồng đôi tóc,
Canh
vắng ai người lạnh nửa chăn.
Tiếc
nỗi Chương đài mưa núi tạnh,
Trăng
non còn nhớ bóng hoa lồng.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Sạ
đồng khách chẩm hựu phân khâm,
Tao
lộ trần dao cổ viện thâm.
Mạnh
thuộc đào hoa lân tự cổ,
Mộng
huyền mai thực sỉ như câm.
Thiên
nhai hữu khách song bồng mấn,
Thâm
dạ hà nhân bán lãnh khâm,
Thác
ái Chương đài sơn vũ hậu,
Đề
hồi sơ nguyệt ẩm hoa âm.
Chú
thích:
Chương
đài: Kiều: Khi về hỏi liễu Chương đài, cành xuân đã bẻ
cho người chuyên tay. Chương Đài tên con đường ở Trường
An, Đời Đường, Hàng Hoành có lấy một người kỹ nữ họ
Liễu ở con đường đó. Sau Hoàng Hoành làm quan xa, Liễu Thị
ở nhà bị tướng Phiên cướp mất, mãi ba năm sau mới tái
hợp. Thơ Hàng Hoành viết cho Liễu Thị có câu: Chương Đài
liễu. Tích nhật thanh thanh, kim tại phủ ? Giả ưng phân chiết
tha nhân thủ ? Cây liễu Chương Đài xưa xanh xanh, nay còn không
? Hay là tay khác đã bẻ mất rồi ?
Bài
19: Đầu xóm chia tay nhau lệ thắm khăn, nhìn nhau lưu luyến
không nói lên lời nào. Mười phần hoa sắc đến nước Nam,
nàng mang lại ánh sáng mùa xuân vào cửa Bắc. Bóng trăng hồn
nhiên phơi phới giữa trời cao, hồn hoa Mai đã gửi bên bờ
bến nước (nàng đã yêu Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển).
Từ nay chỉ thấy tương tư là đau khổ, gối lạnh phòng không
nhớ đứt ruột.
Đầu
xóm cầm tay lệ thắm khăn,
Nhìn
nhau lưu luyến lặng tình câm.
Mười
phần son sắc trời Nam đến,
Quá
nửa xuân quang cửa Bắc tràn.
Bóng
quế trời cao thăm thẳm lộng,
Hoa
mai hồn gửi bến sông trong.
Từ
nay lòng khổ vì thương nhớ,
Gối
lạnh phòng không nỗi đoạn trường.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Huề
thủ thôn đầu thức lệ ngân,
Trù
trừ tương cố cánh vô ngôn.
Thập
phần hoa sắc lai Nam quốc,
Thái
bán xuân quang nhập Bắc môn.
Quế
ảnh hồn như thiên thượng lộng,
Mai
hoa thác đắc thủy biên hồn.
Tòng
kim đãn giác tương tư khổ,
Trường
đoạn đông phòng chẩm vị ôn.
Bài
20 Trên bến sông Tô Lịch mùa xuân sắp đến,
nay tạm chia tay khách bùi ngùi, đã rằng tài tử hay đề thơ
bạch tuyết (làm những bài thơ khó hoạ) riêng bản tính Phi
Mai thích người đi xa. Chớp mắt phong trần đều là mộng
ảo cả, gần đây thi tứ chẳng gì vui. Đáng thương cho kẻ
từ đêm đen quay đầu nhìn lại, người ta mong nhớ bây giờ
nơi đâu ?
Đầu
bến Tô Giang xuân sắp đến,
Tạm
rời ly biệt khách sầu ai .
Đã
rằng tài tử hay đề tuyết,
Riêng
thích chinh nhân bản tính mai.
Một
thoáng phong trần cơn mộng ảo,
Gần
đây thi tứ chẳng gì vui.
Thương
sao đêm thẳm lòng nhung nhớ,
Mong
nhớ người xa nỗi ngậm ngùi.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Tô
giang giang thượng xuân tiệm lai,
Tạm
thời ly hợp khách tâm ai.
Dĩ
tri tài tử năng đề tuyết,
Thiên
hỉ chinh nhân bản tính mai.
Thúc
hốt phong trần đô thị mộng,
Nhĩ
lai thi tứ vị tằng khai.
Khả
lân hắc dạ dao hồi thủ,
Ngã
tứ chi nhân an tại tai.
Bài
21 Chim hót, mùa xuân tươi tốt cuối tháng ba, lòng
Tốn Phong như bay bổng giữa cơn mê. Từ nay nơi đầu cầu
nước chảy đôi dòng chia hai, tiếng đàn xưa còn rung buổi
chiều tà. Trước ngựa mùa xuân tươi đẹp ý. Mong nàng lên
xe loan với người tâm đầu ý hiệp, xa nàng mong nàng gặp
nhiều may mắn. Bên đình mai cùng nắm tay nhau đối diện với
khóm trúc, từ nay đôi ta chỉ là bạn chân tình với nhau.
Chim
hót hoa tươi cuối tháng ba,
Hồn
chơi không nhớ mộng bay xa.
Đầu
cầu khách biệt chia dòng nước,
Dưới
gác đàn rung nửa ánh tà.
Trước
ngựa theo niềm xuân đẹp ý,
Xe
loan mong sớm với người xa.
Xa
người càng thấy vui khi gặp,
Khóm
trúc đình mai ta với ta.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Hoa
sắc quyên thanh tam nguyệt thì,
Du
hồn không ức mộng trung phi.
Kiều
đầu khách ứ không phân thủy,
Các
hạ cầm minh bán tịch huy.
Mã
thủ hảo tùy xuân đắc ý,
Loan
xa tảo dữ tử đồng quy.
Biệt
quân tối ái phùng quân hảo,
Huề
thủ mai đình đối trúc nhi.
Bài
22 Mười bài thơ năm 1814 vẫn chưa đủ,
Tốn Phong làm tiếp mười bài nữa. Kiếp đời trôi nổi
như bèo nước, sáu năm xưa (1807) đã từng gặp gỡ nàng,
Tốn Phong đã nhiều lần đến thăm Cổ Nguyệt Đường nơi
nàng sinh trưởng. Gian phía trái là nơi tiếp khách, có chậu
hoa nở rộ tươi mát nàng mới tưới hương còn ẩm, tiếng
chim ríu rít giữa sân bên hòn non bộ, Tốn Phong tả nước
trong hòn non bộ thành khói bốc lên cho thi vị chăng ? Khí
hậu làng Nghi Tàm có đủ lạnh để khói bốc như thế chăng,
tôi ngờ rằng phía sau hòn non bộ đặt vài ông táo để nấu
nước, pha trà đun cũi khói bốc lên. Hai chữ tả viện cho
phép ta suy diễn: ngôi Cổ Nguyệt Đường được Tốn Phong
gọi là đình, hay viện, khá lớn cất theo hình chữ khẩu
(hình vuông) có tả viện nơi tiếp khách, bán giấy bút cho
học trò, tất nhiên có hữu viện là phòng ngủ, khuê phòng,
thư phòng, gỗ chạm khắc cho ánh sáng đủ vào. Tiền viện
là gian nhà dạy học và hậu viện là nơi bàn thờ thờ phụng.
Chính giữa là sân gạch có hòn non bộ, chậu kiểng, khi cần
dùng có thể biến thành sân phơi thóc. Gian tả viện và tiền
viện phía trong không có vách để có ánh sáng, có tấm phản
cho thầy ngồi, học trò trải chiếu ngồi chung quanh. Gian tả
viện có một vài bộ trường kỷ (ghế dài chạm xa cừ),
có bàn đặt bình trà. Gian nhà thờ phía sau, có cửa ván,
khi có giổ chạp hay tang lễ mở cửa ra. Con cháu, học trò
đông đúc đứng tràn ra sân.
So
với ngày trước, nàng có gầy đôi chút làm cho cốt cách
nàng thanh thoát. Sắc đẹp nàng mặn mà hơn xưa, mười phân
vẹn mười. Chỉ tiếc rằng sáu năm qua đi ở không viết
thư cho nhau, nay gặp lại người cũ, hoa xưa lòng vui mừng
xiếc bao.
Gặp
gỡ bèo hoa trước sáu năm,
Nguồn
đào mấy độ đã về thăm.
Hoa
đơm tả viện hương còn ẩm,
Chim
hót non hàn khói biếc dâng.
Thanh
thoát vẻ mai gầy cốt cách,
Rỡ
ràng xuân sắc vẹn mười phân.
Đã
lâu đi ở không tin tức,
Người
cũ hoa xưa gặp gỡ mừng.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Bình
ngạnh tương phùng lục tải tiền,
Đã
tằng kỷ độ phỏng đào nguyên.
Hoa
khai tả viện hương do thấp.
Điểu
lộng hàn sơn thủy dục yên.
Nhất
dạng mai trang thanh triệt cốt
Thập
phần xuân sắc hảo liên thiên.
Chỉ
kim quy khứ vô tiêu tức,
Y
cựu đào hoa nhận túc duyên.
Bài
23 Mùa xuân sang, biết tìm thần hoa xứ nào, mười
độ xuân về chín độ nhớ thương nàng. Tiếc rằng thân
phận thư sinh chưa đỗ đạt sớm gặp người tri kỷ. Dù
ngàn vàng cũng không mua được tấm thân thanh xuân của nàng.
Ánh hồ trong leo lẽo thấy suốt đáy, vầng trăng tròn sáng
soi Cổ Nguyệt Đường. Rặng liễu nơi bờ hồ hãy vì ta mà
nhắn lời rằng: hoa mai đã rực rỡ khắp núi mây ngàn
Xuân
sang nào biết chốn hoa thần,
Mười
độ xuân về chín nhớ thương.
Mặt
trắng gặp người tri kỷ sớm,
Nghìn
vàng khôn chuộc tuổi thanh xuân.
Hồ
trong leo lẽo soi lòng thẳm,
Đình
nguyệt tròn xoe sáng ánh rằm.
Dặm
liễu hãy vì ta nhắn bến,
Hoa
Mai rực rỡ núi mây ngàn.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt :
Xuân
lai hà xứ mịch hoa thần,
Thập
độ xuân lai cửu tích quân.
Bạch
diện tao phùng tri kỷ khách,
Hoàng
kim nan nại thiếu niên thân.
Hồ
quang liễm liễm thanh vô để,
Đình
nguyệt đoàn đoàn mãn thập phần,
Vị
ngã truyền ngôn giang thượng liễu,
Mai
hoa dĩ chiếm lĩnh đầu vân.
Chú
thích:
Bạch
diện: bạch diện thư sinh, người học trò chưa thi đỗ.
Bài
24 Xuân đã về, đi dạo chơi khắp chốn kinh
thành thấy hồn thơ lai láng. Một cánh hoa bay cũng làm buồn
lòng người, Tốn Phong dùng chữ hoa bay ý nói tên Phi Mai làm
cho chàng thương nhớ, ngoài trời bóng mây trôi như người
lữ khách bao năm phiêu bạt. Sóng thông reo khúc nhạc êm đềm
cho người ngồi bên bến nước lắng nghe, có nhàn rỗi tâm
hồn mới yên tịnh lắng nghe những cảnh sắc đẹp.
Càng giao du với nàng càng lâu càng thân thiết. Còn nhớ những
đêm thanh cùng nhau xướng họa thơ nơi đình mai, một bầu
trời trăng sáng ngần như bạc.
Khắp
thành xuân sắc tứ thơ vương,
Một
cánh hoa bay ai nhớ thương.
Thoáng
bóng mây xa ngàn dậm đó,
Thông
reo tiếng sóng bến bờ tương.
Việc
đời mới hiểu nhàn nên tốt,
Càng
đậm tình sâu biết tỏ tường.
Còn
nhớ đình mai vui thuở ấy,
Trời
cao một sắc trắng như gương.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Mãn
thành xuân sắc tứ phân phân,
Nhất
phiến hoa phi não sái nhân.
Vân
ảnh sạ tòng thiên ngoại khứ,
Tùng
đào như hưởng thủy biên vân.
Đình
tri thế sự nhàn như hảo,
Thả
giác giao tình cửu cánh thân.
Thượng
ức mai đình thanh dạ hứng,
Trường
thiên nhất sắc bạch như ngân.
Bài
25. Trời cao một sắc trăng sáng ngần như bạc. Mỹ nhân
Xuân Hương Hồ Phi Mai đã ra đón từ bến trúc. Nàng như vầng
trăng xưa tỏa sáng bao ý đêm, Nàng như hoa trời nở rộ khắp
đình xuân. Nàng làm những câu thơ bạch tuyết khó ngâm khó
họa, thơ nàng vào bậc thánh. Môi nàng say thắm như rượu
có thần. Đừng bảo xuân về xuân lại ra đi, trên cành mai
lạnh mùa đông mai lại nẩy thêm cành.
Trời
cao một sắc trắng như ngân,
Bến
trúc mừng vui gặp mỹ nhân.
Trăng
cũ tỏa ngời bao dạ ý,
Hoa
trời khai nở rộ đình xuân.
Ngâm
câu Bạch Tuyết thơ nên thánh,
Say
đắm môi son rượu có thần.
Đừng
bảo xuân về xuân lại biệt,
Hàn
mai vừa nở một cành xuân.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Trường
thiên nhất sắc bạch như ngân,
Trúc
lý phùng nghinh đối mỹ nhân.
Cổ
nguyệt chiếu lai khiêm dạ ý,
Thiên
hoa khai xử mãn đình xuân.
Ngâm
thành bạch tuyết thi năng thánh,
Túy
đáo chu nhan tửu diệc thần.
Mạc
nhạ xuân lai xuân hựu khứ,
Hàn
mai di phó nhất chi tân.
Bài
26 Phía trên La Thành tiếp giáp với Thiên Hà, ngoài
thành cuồng cuộn dòng sông Nhị chảy qua. Bờ liễu tháng
chạp tha thiết buông lơi. Gốc mai xông lạnh tự nở hoa trời.
Mười năm đọc sách luyện kiếm dùng làm chi nhỉ ? Muôn dậm
còn ruổi rong ta biết ra sao bây giờ. Lặng nhìn móng cầu
vòng bảy sắc mà lòng thấy thú vị, lòng tưởng như hồn
bay chơi tới tận chân trời.
La
Thành trời rộng nối Thiên hà,
Cuồng
cuộn ngoài thành sông Nhị qua.
Tháng
chạp biếc xanh hồ liễu rũ.
Tiết
hàn mai tự nở ngàn hoa.
Mười
năm thư kiếm dùng chi nhỉ ?
Muôn
dậm phiêu bồng mãi thế a !
Lặng
ngắm móng trời riêng cảm khoái.
Mộng
hồn tường đến bến bờ xa.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
La
Thành chi thượng tiếp Thiên hà,
Thành
ngoại dung dung nhị thủy qua.
Đãi
lạp liễu tương thư ngạn sắc,
Xung
hàn mai tự phát thiên hoa.
Thập
niên thư kiếm tương an dụng ?
Vạn
lý trì khu thả nại hà !
Tỉnh
đối tà hồng thiên giác hảo,
Mộng
hồn tưởng dĩ đáo thiên nha.
Chú
Thích:
La
Thành: Thành Thăng Long thời Bắc thuộc còn có tên là thành
Đại La do Cao Biền xây.
Thành
Thăng Long được xây dựng vào đời Lý thế kỷ XI, khi Lý
Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Năm 1804 Vua Gia
Long sai Nguyễn Văn Thành phá thành cũ xây lại thành mới nhỏ
hơn.
Bài
27 Hòn non bộ chơ vơ, vầng trăng bán nguyệt
soi đình mai, nhà vắng gió nhẹ thanh mát say tình đêm. Cành
vông đồng biếc gầy ngoài sân, chim phượng đậu, sau cơn
mưa cây lá lạnh đã nghe tiếng chim oanh chuyền cành. Vào cuối
thu ánh trăng sáng soi hồn mai lạnh buốt. Nước rót vào bình
thơm còn vương bóng liễu nhẹ thênh thang. Tứ thơ man mác
mộng theo ý xuân, hòn non bộ đơn côi giữa sân ánh sáng trăng
nửa vầng chiếu sáng.
Non
trơ nửa nguyệt sáng mai đình,
Gió
nhẹ nhà yên tối vắng tanh.
Cành
biếc vông gầy sân phượng đậu,
Mưa
tàn lá lạnh cội chuyền oanh.
Thu
tròn ánh nguyệt hồn mai giá,
Nước
nhỏ bình thơm bóng liễu xanh.
Man
mác tứ xuân vào giữa mộng,
Non
trơ nửa nguyệt sáng mai đình.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Cô
sơn bán nguyệt bạng mai đình,
Tĩnh
viện lương phong ngọ dạ tình.
Ngô
bích sấu chi đình hạ phượng.
Vũ
dư hàn diệp thụ lưu oanh.
Thu
viên nguyệt sắc mai hồn lãnh,
Thủy
lựu hương bình liễu ảnh khinh.
Du
tử mộng tùy xuân ý đắc,
Cô
sơn bán nguyệt bạng mai đình.
Cô
Sơn: có thể hiểu là núi Tam Đảo, nhưng núi Tam Đảo từ
Cổ Nguyệt Đường chỉ có thể thấy khi trời quang mây tạnh.
Bài Cố kinh thu nhật, Hồ Xuân Hương có viết: Tam Đảo trời
quang vọng bắc xa (Tam Đảo tình quang Bắc vọng xa) do đó
ban đêm trăng bán nguyệt Tốn Phong chỉ có thể thấy hòn
non bộ nhà Phi Mai.
Bài
28 Từ lúc chia tay mỗi người mỗi ngã, đường đời
bao chặng trải nhiều nỗi thăng trầm. Phi Mai ba lần lầy
chồng (lần thứ nhất với Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm,
lần thứ nhì với Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà, và lần thứ
ba Tham Hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển) còn khách (Tốn
Phong) vẫn vậy sáu năm nay. Quen xem phong cảnh đời trôi nổi,
ngán nỗi tình đời khi ấm khi lạnh. Quay lại nơi Đồng Giang,
bến sông Hồng nơi chia tay nhau năm 1808, rặng liễu đìu hiu
tỏa bóng râm.
Từ
khi cách biệt nỗi phân ly,
Sầu
cạn từng phen trải lối đi.
Mai
quả đã từng ba độ kết,
Khách
tình vẫn vậy sáu năm nay.
Quen
xem phong cảnh: đời trôi nổi,
Ngán
cõi người ta : ấm lạnh rồi.
Quay
lại Đồng Giang nơi tiễn biệt,
Đìu
hiu rặng liễu bóng đơn côi.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Tự
tòng biệt hậu các phân khâm,
Thế
lộ hành hành lịch thiển thâm.
Mai
thực đã tằng tam độ kết,
Khách
tình dĩ thị lục niên câm (kim)
Quán
khan phù thế phong quang thái,
Đố
sái thời nhân lãnh noãn khâm.
Hồi
thủ Đồng Giang phân quyết xứ,
Y
y dương liễu dĩ thành âm.
Chú
thích: l
Câm:
Chữ kim là nay, vì tránh tên húy Nguyễn Kim ông Tổ họ Nguyễn
nên đọc thành câm.
Đồng
Giang: Nguyễn Du có bài thơ Đồng giang lung.
Bài
29 Ngàn dậm ra đi nơi trường đình lau nước mắt,
người ở người đi không nói năng gì, đã từng nghe non mai
báo tin xuân. Mấy lần thấy sóng lớn đập vào cửa biển.
Tốn Phong mấy lần đi qua cửa biển Thần Phù, sóng cao nguy
hiểm đối diện với cái chết Lênh đênh qua cửa Thần
Phù, khôn tu thì nổi vụng tu thì chìm. Lòng nhớ nước cũ
bao giờ tan được như hồn vua Thục hóa thành chim đỗ quyên
kêu quốc quốc. Chìm sông Mịch Giang hồn Khuất Nguyên vẫn
còn mãi thơ Ly Tao ai oán muôn đời. Đây là hai câu thơ duy
nhất Tốn Phong nói lên tâm sự thời thế của mình. Lòng
Tốn Phong còn nhớ đến nhà Lê, chúa Trịnh, tiếc rằng Vua
Sở không nghe những lời ngay thẳng của Khuất Nguyên mà nước
mất nhà tan. Thôi nói chi việc đời nay có rượu nên cùng
say, hương vị rượu Hoàng Cúc càng uống càng thắm môi nồng
nàn.
Ngàn
dậm trường đình lệ thắm khăn,
Người
ở người đi chẳng nói năng.
Từng
thấy non mai xuân báo thiệp,
Đã
quen cửa biển sóng thăng trầm
Bao
năm Hồn Thục còn thương nước,
Ngàn
thuở Ly Tao oán Mịch Giang.
Nay
có rưọu thơm cùng thưởng nhé,
Men
say Hoàng Cúc rượu nồng nàn;
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Thiên
lý trường đình phất lệ ngân,
Nhân
lai nhân khứ lưỡng vong ngôn.
Tằng
văn mai lĩnh truyền xuân tín,
Tỷ
kiến trào thanh hám hải môn.
Vọng
đế hà niên tiên Thục phách,
Mịch
giang chung cổ oán Tao hồn.
Như
kim hữu tửu tu đồng túy,
Nhương
thục Hoàng hoa vị cánh ôn.
Chú
thích:
Thục
phách: Vua Thục Đế vì dâm vợ Biết Linh, nên giao ngôi lại
cho Biết Linh. Sau Biết Linh làm ngặt phát lương cho ăn vất
vả. Thục Đế mới buồn bỏ xứ ra đi, hóa ra chim đỗ quyên,
tiếng kêu quốc quốc thảm thiết. Người đời nói vua Thục
Đế tiếc nước nên tiếng kêu bi thương. Nguyễn Du, Kiều:
Khúc đâu đầm ấm xuân tình, Ấy hồn Thục Đế hay mình
Đỗ Quyên. Bà Huyện Thanh Quan (Nguyễn thị Hinh): Nhớ nước
đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Mịch
giang: Khuất Nguyên khuyên vua Sở không nghe đến mất nước,
viết tập thơ Ly Tao để lạo cho đời và trầm mình xuống
sông Mịch Giang..
Hoàng
hoa: cúc vàng nở mùa thu.
Bài
30 Đầu thành có tiếng sáo thổi từ bên sông
vọng sang, nghiêng lắng tai nghe giọng buồn thương ai oán.
Nhìn những cánh nhạn đứt đàn trong sương mây, ngựa trạm
rong ruổi trên đường mùa xuân như đang đùa với mai trên
núi. Dạ sầu như tuyết bay đi không trở lại. Thi tứ khách
giống như hoa giữ mãi nụ không nở, ngậm ngùi muốn lưu
mùa xuân, xuân không dừng lại, đời người như mây nổi
mờ mịt thế thôi. Năm 1814 Xuân Hương đã yêu Tham Hiệp Yên
Quảng Trần Phúc Hiển, tình yêu Tốn Phong chỉ còn như tiếng
sáo ai oán, tình chàng như ngựa trạm qua nhanh như đùa với
mai vàng bên núi. Tình Tốn Phong sẽ mãi mãi là đóa hoa nguyên
nụ không nở nữa. Xuân Hương không dừng lại trong đời
chàng, mà mỗi người đi mỗi ngã, đời mờ mịt như mây
trôi lang thang.
Đầu
thành tiếng địch vọng bên song,
Nghiêng
lắng tai nghe khúc nhạc buồn.
Mờ
mịt sương lam mây khuất nhạn,
Nhởn
nhơ ngựa hí nẻo mai vàng.
Sầu
dài tựa tuyết bay bay mãi,
Nỗi
khách như hoa chẳng thở than.
Đau
xót xuân về xuân chẳng ở,
Thì
thôi mây mấy độ lang thang.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Thành
đầu suy địch quá giang lai,
Trắc
nhĩ như văn vận vận ai .
Vọng
đoạn sương mê vân tế nhạn,
Dịch
trì xuân hí lũng đầu mai.
Sầu
trường tự tuyết phi nan phản,
Khách
tứ như hoa bão bất khai,.
Trù
trướng lưu xuân xuân bất tụ,
Phù
vân diểu diểu dĩ yên tai.
Bài
31 Đời người vui chơi được bao lâu, muốn ném tung lòng
trần từng mảnh đi. Trước chùa một cột trên nóc chạm
tương hình chim ngủ đổ soi mặt hồ. Trên hồ Bách hoa bóng
nắng chiều xế tà. Chuyện Tư Mã Tương Như hát khúc Phượng
Cầu Kỳ Hoàng cho Trác Văn Quân đã muộn rồi. Lòng Tốn Phong
chỉ còn như Tư Mã Tương Như, đề nơi trụ cầu: «
Mai đây không mặc áo cừu nhẹ, không ngồi xe ngựa thề không
trở lại cầu này », không thi đỗ không làm nên sự nghiệp,
thề không trở lại chốn này. Mai sau nếu gặp lại Phi Mai
còn nhớ, một người tình si đã yêu Mai, lăn lóc cuộc đời
gió bụi khắp trần gian này.
Những
bài thơ cuối cùng của Tốn Phong buồn thảm, chấm dứt mối
tình tuyệt vọng, để nàng yên tâm lên thuyền hoa về Yên
Quảng. Và Tốn Phong đã trở về Nghệ Tĩnh không còn trở
lại Thăng Long nữa.
Đời
người vui thú được là bao,
Từng
mảnh lòng trần dứt được sao ?
Một
Cột trước chùa chim tối ngủ,
Trăm
Hoa hồ rộng bóng chiều chao.
Cầu
Hoàng chuyện ấy xuân đành muộn,
Đề
trụ, tay không chẳng trở vào.
Gặp
lại hoa Mai còn nhớ nhỉ ?
Phong
trần đày đoạ một tình đau.
31
bài thơ chữ Hán thơ Tốn Phong, Nhất Uyên dịch thơ Đường
luật và chú thích
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Nhân
sinh hành lạc kỷ đa thì,
Phao
khước trần tâm phiến phiến phi.
Nhất
Trụ tự tiền thê mộ điểu,
Bách
Hoa hồ thượng lạc tà huy.
Cầu
Hoàng để sự xuân ưng vãn,
Đề
Trụ hà nhân lão bất quy.
Trùng
đối mai hoa nhược tương ức,
Phong
trần mãn địa nhất tình nhi.
Chú
thích:
Nhất
Trụ: Chùa Một Cột, chùa Diên Hựu, xây dựng năm 1049 dưới
thời vua Lý Thái Tông. Năm 1954 chùa bị phá trước khi người
Pháp rút đi, chùa mới xây dựng lại nhỏ hơn chùa củ nhiều.
Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư bàn kỷ q 3 tr 15a chép: « Mùa
thu tháng 9 năm Long Phù thứ năm 1105, làm hai ngọn tháp chỏm
trắng chùa Diên Hựu. Bấy giờ vua Lý Nhân Tông cho chữa lại
chùa Diên Hựu đẹp hơn cũ, đào hồ ở đài hoa sen gọi là
Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chung quanh lại
đào hồ Bích Trì đều bắt cầu vòng để đi qua. Trước
sân chùa xây bào tháp.
Bách
Hoa: Trăm Hoa có bản chép là Hữu Hoa, hồ Bích Trì.
Cầu
Hoàng: bản Phượng Cầu Kỳ Hoàng của Tư Mã Tương Như đàn
cho Trác Văn Quân nghe.
Đề
Trụ: Khi còn hàn vi Tư Mã Tương Như qua cầu sông Vị, đề
chữ vào cột cầu rằng: Mai đây không mặc áo cừu nhẹ không
ngồi xe ngựa thề không trở lại cầu này.
B.
Chân dung Hồ Xuân Hương qua thơ Tốn Phong:
B1.Gia
đình: Hoàng Các vốn gia đình vọng tộc(bài 2): Tốn Phong
chú ý đến Xuân Hương Hồ Phi Mai, dòng dõi gia đình vọng
tộc, có nhiều người đỗ Tiến Sĩ làm quan to. Theo gia phả
chi Hồ Phi Tích lưu trử tại Thư viện Hoàng Xuân Hãn Paris.
Gia phả biết đến đời Trạng Nguyên Hồ Hưng Dật thế kỷ
thứ 10 làm Thái Thú Diễn Châu ngụ cư tại Quỳnh Lưu tỉnh
Nghệ An. Đời Trần có Hồ Tông Thốc. Đời Lê có Hồ Sĩ
Dương đậu Tiến sĩ là một nhà chính trị học, sử học.
Riêng chi ở Quỳnh Lưu đời thứ 8, Hồ Sĩ Anh con cháu có
Hồ Phi Tích (1665-1734) đậu Hoàng Giáp năm 1700 và Hồ Sĩ Đống
(1744-1785) dậu Hoàng Giáp. Có chi ra Tây Sơn Bình Định, Hồ
Phi Phúc đổi họ Nguyễn, sinh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống, nữ
sĩ Xuân Hương Hồ Phi Mai, Tú Tài Hồ Phi Hội cùng có một
ông tổ cách 4 đời là Hồ Sĩ Anh.
Hồ
Sĩ Đống quê xã Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Đỗ Tiến Sĩ năm 1772 làm Thượng Thư Bộ Binh tước Dao đình
Hầu, sau thăng tước Ngọc Quận Công, năm 1777 ông sung chức
Phó Sứ sang nhà Thanh, Chánh Sứ là Võ Khâm Tự. Tới Động
Đình Hồ Võ Khâm Tự mất, trước khi mất có tiết lộ cùng
ông việc Chúa Trịnh Sâm có làm tờ biểu riêng xin Vua Thanh
phong Vương cho họ Trịnh. Ông im ẩn việc ấy, mà chú Trịnh
cũng chẳng hỏi gì khi sứ bộ trở về.
Phạm
Đình Hổ trong Vũ Trung Tùy Bút, bài Thể Thơ tr 164 đánh giá
Hồ Sĩ Đống là một nhà thơ lớn đương thời: Trong khoảng
đời Vĩnh Hựu(1735-1740) đời Vua Lê Ý Tông, Cảnh Hưng(1740-1786)
đời Vua Lê Hiển Tông.: Nguyễn Tôn Khuê thực là một lãnh
tụ về thời ấy, thứ hai đến Nguyễn Huy Oánh rồi đến
Hồ Sĩ Đống cùng nối nhau khởi nên tự lập thành nhà thơ
có tiếng. Ta thường xem thơ các bậc tiền bối, Thơ Phúc
Khê Công (Nguyễn Tôn Khuê) thì tinh vi đẹp đẽ, nhưng có
phần vụn vặt quá. Lai Thạch Công (Nguyễn Huy Oánh) là bậc
thanh cao, nhưng vẫn có ý mô phỏng; thơ Hoàng Hậu Công (Hồ
Sĩ Đống) thì chủ lấy khí phách, không thèm lấy điêu khắc
vẽ vời làm khéo. Thi học đến đời ấy đã trung hưng lên
được.
Trong
Vũ Trung Tùy bút, bài Thần Hồ Động Đình còn chép lại bài
thơ Hồ Sĩ Đống viếng Võ Khâm Tự. Tôi dịch như sau:
Hai
độ hoàng hoa chánh sứ thần,
Tuổi
cao đức trọng bậc công khanh.
Bang
giao những tưởng như ngà ngọc,
Tiên
cốt nào hay gió bụi trần.
Giọt
lệ đồng châu dâng một lễ,
Tiếng
danh tài bút bậc công thần.
Trăng
thu thấp thoáng bên hồ rộng,
Lại
chiếu quê nhà bóng cố nhân.
Thơ
chữ Hán Hồ Sĩ Đống, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Hoàng
Hoa lưỡng độ phú tư tuân,
Uyên
đức kỳ niên canh kỷ nhân.
Cộng
tiễn bang giao nhàn ngọc bạch,
Thùy
tri tiên cốt lịch phong trần,
Sinh
sô sái lệ đồng chu khách,
Tái
bút danh qui tuẩn quốc thần.
Trù
tướng thái hồ thu nguyệt sắc,
Dạ
lai do chiếu ốc lương tần.
Hai
câu kết: Trù tướng thái hồ thu nguyệt sắc, Dạ lai do chiếu
ốc lương tần. Trăng thu thấp thoáng bên hồ rộng, lại chiếu
quê nhà bóng cố nhân, thật tuyệt tác
Ngày
nay chúng ta biết nhiều về Nguyễn Huy Oánh (1722-1799) người
làng Lai Thạch, huyện La Sơn Hà Tĩnh, thân phụ Nguyễn Huy
Tự (diễn ca Hoa Tiên). Đậu Thám Hoa năm 1748, để lại hơn
60 tác phẩm, có nhiều tập thơ lúc đi sứ Trung Quốc.
Phúc Giang Thư Viện, thư viện duy nhất được triều đình
sắc phong, và Trường Lưu học hiệu đào tạo 30 học
trò đỗ Tiến Sĩ.
Về
Nguyễn Tôn Khuê (1692 ?) còn gọi Phúc Khê Công hiệu Thư Hiên,
người làng Phúc Khê, huyện Ngự Thiện, Trấn Sơn Nam, đậu
Hoàng Giáp năm 1721 đời Bảo Thái, có tập thơ Sứ Hoa Tùng
Vịnh, Việt Sử Thi Tuyển. Nguyễn Tôn Khuê là thầy của Tiến
sĩ Lê Quý Đôn và Tiến sĩ Đoàn Nguyễn Thục.
Về
Hồ Sĩ Đống, anh họ Hồ Xuân Hương chúng ta không biết gì
nhiều, dù có lúc ông đứng đầu triều đình, thật là đáng
tiếc.
Theo
Hồ Tuấn Niệm trong bài Bàn lại đôi điểm về tiểu sử
Hồ Xuân Hương. TCVH số 1-1972 tr 9-31, trích dẫn Hồ tộc Hương
khoa trường bản soạn bởi Tú Tài Hồ Phi Hội (1802-1872):
Hồ
Phi Diễn (1703-1786) con trưởng huấn đạo Phi Da, năm 21 tuổi
đậu Tam Trường, đời Bảo Thái thứ tư, khoa Quý Mão (1723).
Hồ Phi Diễn dạy học ở làng Nghi Tàm lấy vợ thứ họ Hà
sinh Xuân Hương Hồ Phi Mai.. Hồ Phi Diễn là một vị thầy
danh tiếng làng Nghi Tàm, tên tuổi còn truyền lại đến đầu
thế kỷ 20, các nhà viết văn học sử đầu tiên như Dương
Quảng Hàm, Lê Dư, Trần Trọng Kim đều nhắc đến.
Việc
ông Đào Thái Tôn cho rằng Xuân Hương con Hồ Sĩ Danh, cùng
cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống chỉ là một sự phỏng đoán,
do bài tựa Lưu Hương Ký, Tốn Phong viết, em ông lớn họ
Hồ. Việc này không có bằng cớ, vì ngày xưa cách nhau 4 đời
là rất gần, các nhà vọng tộc xưng em với nhau khi vai vế
thấp hơn. Ông Cố của Hồ Sĩ Đống là Hồ Phi Quyền là
anh ruột của ông Hồ Phi Cơ, ông cố của Phi Mai.
B2
Nhan sắc: Xuân Hương Hồ Phi Mai là một phụ nữ xinh đẹp,
Tốn Phong chấm giải là hoa khôi xuân sắc nhất thành Thăng
Long, điều này khác hẳn với một Hồ Xuân Hương xấu xí,
da xù xì như trái mít trong Giai Nhân Dị Mặc của Nguyễn Hữu
Tiến:
Tốn
Phong đã viết:
Hồng
nhan tiên giới thác sinh chăng..
Hoa
Mai xuân sắc nhất kinh thành . (Bài 2)
Nghê
Vũ người tiên mây giáng hiện..
Một
bầu mây nước hoa nhuần nhị
Muôn
dậm sao trời trong mắt xanh (Bài 3)
Mày
liễu xanh xanh thêm mến nguyệt,
Hương
mai thoang thoảng mãi yêu xuân (Bài 4)
Đêm
thu man mác mai gầy vóc,
Bến
nước đìu hiu liễu rủ cành (Bài 6)
Đào
nguyên hò hẹn cùng tiên nữ. (Bài 15)
Mười
phần son sắc trời Nam đến,
Quá
nửa xuân quang cửa Bắc tràn (Bài 19)
Thanh
thoát vẻ mai gầy cốt cách,
Rỡ
ràng xuân sắc vẹn mười phân (Bái 22)
Nghìn
vàng khôn chuộc tuổi thanh xuân
Hoa
mai rực rỡ núi mây ngàn . (Bài 23)
Bến
trúc mừng vui gặp mỹ nhân (Bài 25)
B.3
Tài thơ văn: Xuân Hương Hồ Phi Mai làm thơ, những
vần điệu khó làm như thơ Bạch Tuyết ít ai họa được,
nàng là vị thần thơ trên tao đàn:
Ngâm
thơ Bạch Tuyết khói mây dâng..
Nổi
tiếng văn chương tiên xuống trần (Bài 1)
Tao
đàn xuất hiện vị thơ thần.
Kết
tự sao Khuê vẹn thập phần (Bài 2)
Sầu
vướng nét mi gầy với tuyết,
Hương
vào ngọn bút nở xuân tươi. (Bài 9)
Đã
rằng tài tử hay đề tuyết (Bài 20)
Ngâm
câu bạch tuyết thơ nên thánh,
Say
thắm môi son rượu có thần (Bài 25)
Hồ
Xuân Hương có làm thơ đùa nghịch:
Hứng
về lại thấy thơ sinh quỷ,
Sầu
đến rồi hay rượu có thần
Ướm
hỏi Cao Đường ai đoán mộng,
Gió
mưa Đài Sở được bao lần ? (Bài 4)
B.4
Sức khoẻ: Sức khỏe Hồ Xuân Hương như các mỹ nhân
đào hoa trong sử sách, nàng gầy như mai.
Sức
vóc đào tơ như tự cổ (Bài 18)
Mai
gầy cung điệu gió thanh thanh (Bài 17)
Nguyễn
Du trong bài thơ Ký Mộng gửi Xuân Hương cũng đã viết: Nguyễn
Du nằm mơ thấy mỹ nhân Phi Mai, gặp lại đầu tiên kể lể
Trước
kể nỗi đau ốm,
Rồi
than những ngày xa.
Theo
thơ Tốn Phong Hồ Xuân Hương có ba đời chồng:
Mai
quả đã từng ba độ kết (Bài 28)
và
một lần sinh nở:
Chốn
dời Mai lại nẩy thêm cành (Bài 15)
Hàn
Mai vừa nở một cành xuân (Bài 25)
Điều
này xác định bởi cụ Dương Văn Thâm, người Vĩnh Phú cùng
làng với Tổng Cóc và có sưu tầm nhiều câu chuyện về Hồ
Xuân Hương khi làm lẽ Tổng Cóc, Hồ Xuân Hương dứt tình
bỏ Tổng Có đi khi mang thai 6 tháng. Xem Nguyễn Hữu Nhàn trong
Hoàng Xuân, Lữ Huy Nguyên. Hồ Xuân Hương Thơ và Đời. Văn
Học Hà Nội 1995
B5..Tính
tình: Xuân Hương rất hiếu khách, nàng không bỏ lững
câu chuyện bao giờ:
Chủ
nhân trước viện trắng mai hoa,
Rất
quý thần hoa yêu mến khách (Bài 5)
Tơ
liễu kìa ai rất có tình (Bài 11)
Nhà
lan là lúc chong đèn bạc,
Kể
chuyện giang hồ hẹn mối duyên (Bài 12)
Phồn
hoa bạn cũ như ngày mới
Sinh
tử giao tình tưởng mới thân.
Tình
trọng duyên may trời chẳng phụ,
Tình
non như gấm nước như gương. (Bài 14)
Người
cũ hoa xưa gặp gỡ mừng (Bài 22)
Càng
đậm tình sâu biết tỏ tường (Bài 24)
Hồ
Xuân Hương tính tình lạc quan:
Lối
khách buồn vui ai biết hỏi,
Rằng
trong tháng tới lại sang xuân (Bài 13)
Nay
có rượu thơm cùng thưởng nhé;
Hương
say Hoàng cúc rượu nồng nàn (Bài 29)
B.6
Hồ Xuân Hương biết đàn, có lẽ là cây đàn nguyệt cầm,
đàn được yêu chuộng thời bấy giờ:
Đàn
chuyển thu âm vang tỉnh viện (Bài 7)
và
họa cùng sáo Tốn Phong: Thần vào sáo ngọc tung sao đẩu (Bài
7)
Phượng
cầm tự khóm trúc vang thanh (Bài 14)
Phạm
Đình Hổ trong thơ chữ Hán, bài Sở Hữu Càm đã viết về
một người con gái nhỏ yêu hoa mai, biết làm thơ, theo tôi
là Hồ Xuân Hương: Buông đàn cười chẳng gảy. Ngại làm
ai chạnh lòng.
Người
dạy đàn cho Phi Mai là Nguyễn Du. Bài Thạch Đình tặng biệt
Nguyễn Du viết: Cung hoàng dịu vợi dường khôn lọt. Bài
họa trong Lưu Hương Ký, Xuân Hương viết: Khúc Hoàng tay
nguyệt còn chờ dạy. Nguyễn Du đã dạy Xuân Hương nhiều
bài và nàng chờ đợi Nguyễn Du dạy khúc Phượng Cầu Kỳ
Hoàng của Tư Mã Tương Như nói lời yêu đương.
B7.
Hiệu sách và nhà : Xuân Hương từng ra phố Nam thành Thăng
Long mở hiệu sách:
Nam
Phố mười năm xưa đã quen
Hoa
đào độ ấy cách nguồn tiên. (Bài 12).
Và
Tốn Phong ở trước Văn Miếu Quốc Tử Giám cạnh Hồ Kim
Âu đã nhiều lần đến thăm Cổ Nguyệt Đường, đã gặp
nàng tiên chốn Đào Nguyên mà không cần là anh chài Vũ Lăng.:
Trước
nhà cửa Giám, hồ Âu Vàng,
Tìm
đến Đào Nguyên chẳng Vũ Lăng (Bài 1)
Nhà
nàng ở Bến trúc làng Nghi Tàm, một thắng cảnh đẹp trong
Tây Hồ Bát Cảnh, gần chùa Kim Liên.
Bến
trúc mừng vui gặp mỹ nhân(Bài 25)
Nguyễn
Du khi ở ngôi gác tía của anh Nguyễn Khản, thường ra đây
câu cá với Chúa Trịnh Sâm nơi Đền Khán Xuân. Trong bài Mộng
đắc thái liên gọi nàng là lân nữ, cô hàng xóm. Đền Khán
Xuân và Gác Tía nay nằm trong khu đình làng Nghi Tàm, không
xa bến trúc và chùa Kim Liên, nơi thờ bà Chúa Tằm. Đời
Lý vua trả tự do cho các cung nữ ra đây dệt lụa nuôi tằm.
Cổ
Nguyệt Đường là một ngôi nhà gạch lớn xây theo hình chữ
khẩu, hình vuông, có tả viện, Hoa đơm tả viện hương
còn ẩm (bài 22), có hữu viện, tiền viện và hậu viện,
chính giữa là sân gạch bát tràng có hòn non bộ và chậu
kiểng. Tốn Phong gọi nhà Xuân Hương là đình hay viện. Có
một cây bàng lớn trước nhà: Cội bàng trăng khuất chiếu
mai đình (Bài 6). Chung quanh có trồng nhiều cây mai. Chủ
nhân trước viện trắng hoa mai (Bài 5). Và nhà có trồng
rất nhiều hoa, như bao nhà khác ở Nghi Tàm: Nàng ngồi đối
diện với hoa ngàn. (Bài 7).
Có
thời gian 13,14 tuổi Xuân Hương được cha gửi về Quỳnh
Lưu, Hà Tĩnh. Thời gian này ứng với thời gian cụ Hồ Phi
Diễn 80 tuổi. Theo phong tục ngày xưa, để mừng lễ thượng
thọ 80 tuổi cho thầy, học trò lớn bé, đỗ đạt, thành
danh chung góp công sức xây nhà mới cho thầy, do việc xây
cất bề bộn Xuân Hương được gửi về quê cha., năm đó
là năm 1783.. Năm 1786 cha mất thọ 83 tuổi. Hoàng giáp Hồ
Sĩ Đống cũng mất trước đó một năm 1785 hưởng dương
46 tuổi.
Hồ
Xuân Hương có nuôi đôi chim phượng hoàng đất, Nghệ Tĩnh
gọi là Cái Cắng, có lẽ Xuân Hương mang từ chuyến đi Quỳnh
Lưu về, trong văn bản Landes, Xuân Hương có bài Cái Cắng
đánh nhau. Và Tốn Phong viết: Biếc rụng cành ngô sân phượng
múa.(Bài 6) Ngô đồng lá cũ mơ hồn phượng (Bài 17)
Cành biếc vông gầy sân phượng đậu (Bài 27)
Chuyện
tình Xuân Hương với Tốn Phong năm 1814. Xuân Hương đã yêu
Tham Hiệp Yên Quảng và Tốn Phong chúc nàng: Xe loan mong sớm
với người xa và đã biết tình duyên lỡ làng: Cầu
Hoàng chuyện ấy xuân đành muộn. Và chàng thề không trở
lại Thăng Long nữa nếu không làm nên công danh sự nghiệp.
Đề trụ thề không bước trở vào.
Trong
31 bài thơ Tốn Phong 30 lần nhắc đến tên Mai, Hoa Mai, Hàn
Mai, Phi Mai..22 lần tên Nguyệt, 6 lần Cổ Nguyệt chiết tự
họ Hồ và 31 lần chữ Xuân. Điều đó đưa ta đến
kết luận Xuân Hương tên thật là Mai : Hồ Phi Mai, Hồ Thị
Mai, hay Hồ Hàn Mai, Hồ Hoa Mai. Cha Xuân Hương là Hồ Phi Diễn
truyền đến tên nàng là Hồ Phi Mai.
Paris
2000-2012
|