Theo
thống kê của nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian thì
có đến trên 90% ca dao, dân ca là thể thơ lục bát. Cũng có
thể xem ca dao dân ca chính là nơi "nằm nôi" của thể thơ
Lục bát và ở cái tuổi "nằm nôi" này Lục bát có những
đặc điểm rất riêng của nó. Có lẽ vì ra đời trong môi
trường truyền miệng và lại đồng hành cùng với nhiều
hình thức diễn xướng dân gian khác nên Lục bát dân gian
có khá nhiều dạng thức biến thể. Đó là dấu tích của
sự chưa định hình hay là sự tương tác qua lại lẫn nhau
giữa thơ và các hình thức diễn xướng khác ?
Tuy
đại bộ phân ca dao đã là trên 6 dưới 8 nhưng khả năng
mở
rộng dung lượng câu của lục bát dân gian còn khá lớn.
Có những câu vẫn tồn tại ở cả hai dạng: nguyên dạng
chúng là một cặp lục bát trên 6 dưới 8: "Yêu nhau mấy
núi cũng trèo / Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua";
nhưng ở dạng biến thể, chúng lại thành một cặp lục bát
trên 7 dưới 11 hoặc 13...:
"Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
/ Ngũ lục sông cũng lội thất bát (cửu thập lục)... đèo
cũng qua". Trong ca dao ta có thể tìm được khá nhiều những
câu tương tự:
-Anh
tưởng nước giếng sâu anh nối sợi gầu dài
Nào
ngờ nước giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây
-
Em thương nhớ ai ngơ ngẩn bên đầu cầu
Lược
thưa biếng chải, gương Tàu biếng soi
-Con
gái ông Bang, con gái ông Phủ qua cũng không màng
Chỉ
chuộng con bạn ngọc biết đá vàng, thủy chung...
Về cách
gieo vần Lục bát dân gian cũng có 2 dạng biến thể. Dạng
biến thể vần bằng thì thay đổi vị trí chữ mang
vần của câu tám từ chữ thứ 6 lên chữ thứ 4.
Ở vị trí này, chữ mang vần nhất thiết phải mang thanh huyền
(trầm bình thanh) và để tương thích với nó các chữ thứ
8 bắt buộc phải mang thanh không dấu (phù bình thanh). Dạng
biến thể này khá phổ biến trong Lục bát dân gian:
-Con
cò mà đi ăn đêm
Đỗ
phải cành mềm lộn cổ xuống
ao
Ông
ơi ông vớt tôi nao
Tôi
có lòng
nào ông sẽ sáo măng.
-Cái
cò lặn lội bờ sông
Gánh
gạo đưa
chồng
tiếng khóc nỉ non.
-Đôi
ta gặp gỡ nhau đây
Như
đàn bò gầy
gặp bãi cỏ hoang
Dạng
biến thể vần trắc ít gặp hơn, nhất là ở hình thức
nguyên dạng thì lại càng hiếm hoi:
-Tò
vò mà nuôi con nhện
Ngày
sau nó lớn nó quện nhau đi
Tò
vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện
ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào.
Ở lối
biến thể này, chữ mang vần của câu sáu (chữ thứ
6)và chữ mang vần của Câu tám (chữ thứ 6) không thay
đổi vị trí nhưng lại thay đổi thanh điệu từ vần
bằng sang vần trắc.
Nhưng chỉ biến đổi được
ở cặp đầu, ở những cặp tiếp theo (nếu có) bắt buộc
lại phải quay về vần bằng như thường. Trong ca dao, dạng
vừa biến thể vần trắc lại vừa
mở rộng dung
lượng câu phổ biến hơn:
-Sóng
sậm sịch lưng chừng ngoài biển bắc
Hạt
mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên
Anh
muốn làm ngơ đi mà ngủ cũng chẳng yên
Sợ
mưa già nước ngập biệt tựa con thuyền vào đâu.
-Cây
cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em
đi lấy chồng cởi yếm trả anh !
Cây
cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm
của tôi mặc yếm gì anh anh đòi ?
-Có
yêu thì yêu cho chắc
Bằng
mà trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng
như con thỏ nọ nó đứng đầu chuông
Khi
vui giỡn sóng khi buồn giỡn trăng.
-Mặt
trời vừa lặn, mặt trăng vừa ló
Nè
em Hai ôi, lại đây cho anh tỏ một đôi lời
Nước
bèo gặp gỡ vậy thôi
Mai
anh ra cửa biển, em sống đời biệt ly...
Tôi ngờ
rằng đây chính là dạng trung gian chuyển từ Lục bát sang
Song thất lục bát chăng ? Vì số lượng chữ trong câu, vị
trí chữ mang vần, và thậm chí đến cả thanh điệu của
vần đều có thể thay đổi, nên về cơ bản lục bát dân
gian chưa có luật bằng trắc. Nói cách khác luật bằng trắc
của lục bát dân gian cũng chưa ổn định.Chỉ có hai chữ
mang vần của câu tám thì luôn phải đối xứng nhau
về thanh điệu: nếu một chữ là thanh huyền thì chữ
kia phải là
thanh không dấu và ngược lại. Thông thường
thì hai chữ mang vần là chữ thứ 6 và chữ thứ 8. Còn ở
những câu thơ mở rộng dung lượng câu thì cũng khó xác định
vị trí của nó. Nhưng thường thấy là các chữ thêm vào
để mở rộng câu thơ vẫn nằm cả phía trước hai chữ mang
vần. Vì thế mà hai chữ mang vần vẫn luôn luôn cách nhau
một chữ: Một chữ cuối cùng của câu thơ và chữ kia cách
nó một chữ và lui vào phía trong.
Lý
do chính khiến cho lục bát dân gian chưa ổn định và nhiều
biến thể có lẽ chỉ là vì nó được sáng tác và lưu truyền
trong không gian truyền miệng. Người sáng tác cũng thường
là ứng tác rồi xuất khẩu thành chương. Có khi lại là xuất
khẩu thành chương trong một lần hát đúm, hát ví, hát phường
vải, hát trống quân...Nếu là những câu hay, có giá trị
thì nó sẽ được nhập tâm vào những người nghe nó. Có
dịp thì những người nghe và thuộc nó lại đọc lại hoặc
diễn lại ở một nơi khác cho nhiều người khác cùng nghe...Cứ
thế mà những câu lục bát dân gian được lưu truyền trong
xã hôi và luôn luôn sống ở trong lòng người đọc. Cho nên
lục bát dân gian còn tự do và linh hoạt lắm. Nó có họ hàng
với hầu hết các thể thơ ca dân gian khác. Nó chẳng khác
nào một vị trưởng tộc trong họ hàng nhà thơ ca dân gian
vậy.
28/8/2011
Đỗ
Đình Tuân
|