Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ] [ Tác
giả ]
|
|
Sáng
hôm nay anh Nguyễn Toàn từ Sydney chuyển sang bài tình ca mà
những năm 80-90s tôi thích vô cùng, những thanh âm nghe quen
thuộc trong tâm thức của một khung trời tưởng nhớ, qua
lời ca với giọng trầm ấm của chàng ca sĩ nổi danh Julio
Iglesias, khiến tôi tự nhiên nhung nhớ lại những ngày cũ
đã qua, tràn đầy kỷ niệm với tình khúc này,
Vois...
Cuộc sống chỉ đầy ý nghĩa khi ta bao phủ bởi hạnh phúc của tình yêu, nó là niềm tin để sống, để tìm kiếm, để nhớ thương, tiếng nhạc dồn dập nhịp nhàng qua tiếng ghi-ta, réo rắt qua tiếng vĩ cầm, tôi nhớ, và nhớ lắm... Moi
Niềm tin ấy lãng đãng
từ ngày này sang ngày kia, niềm tin ấy bay bỗng theo tiếng
nhạc thân quen từ ngày xưa vào ngày Mai, niềm tin ấy mang
sự mộng mơ về một cõi thơ mộng, đẹp đẽ nhất, nhẹ
nhàng và hồn sâu lắng khi nghe lại bài tình ca có nhiều kỷ
niệm trong sự rung động nào đó... Il Faut Toujours Un Perdant.
Tôi vốn thích giọng ca Julio Iglesias, tôi kể bạn cũ của tôi nghe về Julio, tên cúng cơm dài thòng của anh là Julio José Iglesias de la Cueva sinh ngày 23 tháng 9 năm 1943 tại Madrid, Tây Ban Nha. Julio theo học luật tại trường đại học Madrid và là một thủ môn đá banh cho Câu lạc bộ Real Madrid. Cuộc dời có những định mệnh oái oăm. Cái oái oăm khắt nghiệt giết chết mộng ban đầu của Julio khi anh ước mơ trở thành một cầu thủ nổi tiếng của môn thể thao này. Vào năm 1963, chẳng may anh bị một tai nạn thảm khốc, anh mang tật nên không chạy nhanh được, Julio đã phải giã từ ước mơ mà mình ôm ấp. Trong nỗi buồn tột cùng dó anh lấy ghi-ta ca hát giải sầu, chính âm nhạc đã giúp anh vượt qua những ngày u tối buồn bã, để vơi đi nỗi thất vọng và anh tập sự sáng tác các bài hát. Sau đó, Julio sang Anh quốc học tiếp ngành luật tại đại học Cambridge. Năm 1968, Julio có dịp tham gia Festival de la Canción ở Benidorm. Tại đây, anh đã biểu diễn bài hát do chính mình sáng tác với tựa là "La Vida Sigue Igual" (Life is the same, Đời vẫn thế thôi), anh đã đoạt giải nhất và được hợp đồng thu thanh với hai hãng dĩa Discos Columbia và Ramon Arcusa. Đây là khúc quanh quan trọng cho Julio. Bước sang một khúc quanh quan trọng khác trong cuộc thi hát toàn Âu châu (Eurovision Song Contest), Iglesias đại diện cho nước Tây Ban Nha trình bày bài hát "Gwendolyne" bằng 3 thứ tiếng Pháp, Ý và Anh. Với ca khúc này, anh đã thành công vượt trội gây chú ý sâu rộng tại Âu Châu. Trong những năm kế tiếp sau đó, anh thực hiện nhiều chuyến lưu diễn khắp Châu Âu và vùng Trung Nam Mỹ Châu La tinh, nơi ngôn ngữ Tây Ban Nha vốn thịnh hành. Quan trọng nhất phải nói là khi hãng thu thanh quốc tế bề thế CBS Records mời anh ký hợp đồng, bởi vì anh có thể gây giao động cho hai khối lượng khán thính giả đông đảo dùng ngôn ngữ Anh Mỹ và Tây Ban Nha ở Mỹ quốc nói riêng hay trên toàn thế giới chung. Thế là sự nghiệp của Julio thực sự thăng hoa như vũ bão. Sức tiêu thụ đĩa nhạc tại Hoa Kỳ rất lớn, ngành quảng cáo qui mô và truyền thông quá rộng rãi, điều này thật sự lôi cuống anh. Julio không những có cơ hội bằng vàng giàu sụ mà danh tiếng, tên tuổi được bay đi khắp nơi. Điểm khôn ngoan của Julio Iglesias là tạo tên tuổi mình khi đứng chung với những ca sĩ nổi tiếng của quốc gia sở tại dù là YÙ, Pháp, Mỹ hay các xứ Trung, Nam Mỹ Châu, một kế sách hay chiến thuật độc đáo gây cảm tình mọi nơi anh đến. Tại Hoa Kỳ Julio ca duet với ca sĩ dân ca Willie Nelson qua bài ca bất hủ To All The Girls I Loved Before khi anh tung ra album 1100 Bel Air Place, rồi kế tiếp đến với nữ danh ca Dianna Ross anh ca chung qua bài tình ca All Of You; Đến bài My Love song ca cùng với danh ca Stevie Wonder, một thiên tài khiếm thị, diễn ra vào năm 1988. Những dịp như vậy liên tục tạo cho Julio đạt những big hits thêm thành công, và hốt bạc. Vào năm 1996, với album La Carrettera, Julio Iglesias đã giành ngay giải thưởng trong năm cho album La tinh hay nhất. Vào những năm cuối thập niên 90, Julio Iglesias vinh dự đã bán được hơn 220 triệu bản copies đĩa hát bằng 7 ngôn ngữ khác nhau, đưa anh trở thành một trong những ca sĩ thành công nhất trong lịch sử âm nhạc pop, có khả năng ca đa ngữ.
Julio Iglesias và Enrique Iglesias Đời sống có những sự chân truyền gene hay sự truyền đạt từ khung cảnh gia đình theo mô thức "Hổ phụ sinh hổ tử". Trong giới điện ảnh Hollywood quá khứ đã có những trường hợp như cha-con Henry Fonda và Peter Fonda, cha-con Kirk Douglas và Michael Douglas; trong giới âm nhạc Hoa kỳ có những tương quan tương đồng như cha-con Pat Boone và Debbie Boone hay cha-con Frank Sinatra và Nancy Sinatra, gần tôi hơn như mô thức cha-con qua trường hợp điển hình của Anh Bằng và Trần Ngọc Sơn, Trúc Giang và Trúc Hồ, Tùng Giang và Giáng Ngọc, hay Lê Văn Khoa và Lê Thiên Kim. Dĩ nhiên còn nhiều nữa,... Nói như vậy, hổ phụ Julio Iglesias cũng đã sinh ra hổ tử Enrique Iglesias, Enrique xứng đáng nối gót cha mình, một giọng ca nổi tiếng làm mưa làm gió trong dòng nhạc Anh Mỹ và Tây Ban Nha hay cô đọng hơn là thị trường Châu Mỹ La tinh hiện nay. Enrique Iglesias tạo nên nhiều cơn sốt âm nhạc. Hãy bàn đôi chút về hổ tử, anh có tên cúng cơm đầy đủ là Enrique Miguel Iglesias y Preysler, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1975, là một ca sĩ mà tên tuổi anh gắn liền với các ca khúc thịnh hành như Bailamos, Be With You, Hero, Escape, Do You Know?, Only You,... Vào năm 1995, Enrique cho phát hành album tiếng Tây Ban Nha đầu tay mang tên mình Enrique Iglesias gồm sự chọn lọc những tác phẩm hay, các ca khúc pop Latin pha lẫn nhạc rock nhẹ và ballad. Enrique Iglesias bán được khoảng 1triệu rưởi copies tại Mỹ và 4 triệu 3 triệu dĩa trên toàn thế giới, góp phần đem về cho Iglesias giải Grammy đầu tiên trong sự nghiệp của mình ở vào hạng danh mục "Album Latin pop xuất sắc nhất" tại Giải Grammy 1997. Cùng năm ấy, Enrique cho ra album tiếng Tây Ban Nha thứ nhì Vivir, không những thành công sáng chói về mặt tài chánh mà còn được đánh giá cao về mặt nghệ thuật khi đem về cho Iglesias một đề cử vinh quang tại Giải Grammy 1998 tiếp tục ở hạng danh mục "Album Latin pop xuất sắc nhất". Ngoài ra, Vivir còn góp phần đem về cho anh một đề cử khác tại American Music Award 1998 ở hạng danh mục "Ca sĩ Latin được yêu thích nhất". Năm 1998, album tiếng Tây Ban Nha thứ ba mang tên Cosas del Amor, góp phần đem về cho Enrique một giải thưởng tiếp tục tại American Music Award 1999 và vẫn giữ hạng danh mục "Ca sĩ Latin được yêu thích nhất", đánh bại hai ca sĩ Latin nổi tiếng Ricky Martín và Los Tigres del Norte. Năm 1999, Enrique được mời thu âm bài hát "Bailamos" cho album nhạc phim Wild Wild West của hãng Warner Bros. do Will Smith đóng chính. Chính sự thành công của bài hát đã giúp anh được nhiều hãng đĩa danh tiếng chú ý. Anh đã quyết định ký hợp đồng 48 triệu dollars với hãng Universal để giúp anh phát hành những album hai ngôn ngữ: tiếng Tây Ban Nha qua hãng Universal Latino và tiếng Anh qua hãng Interscope. Tổng cộng đến nay, Enrique Iglesias đã bán được hơn 40 triệu album trên toàn thế giới, một con số không nhỏ. Anh quả thật đã gặt hái thành công để cho bao giấy mực, báo chí đề cao cả hai Julio và Enrique Isglesias đánh dấu thêm những cặp cha-con thành công trong ngành âm nhạc. Tôi rất thích các bài hát của Enrique như Only you, Hero, Bailamos, Be with you,... Sau cùng, xin hãy thưởng thức những bài ca của hổ phụ Julio Iglesias, bạn nhé, vì bài viết này chỉ chú trọng vào Julio the Daddy. Julio Iglesias avec Les Chansons d'Amour Françaises: Il Faut Toujours Un Perdant:
Je N'ai Pas Changé
Viens M'embrasser
J'ai Besoin De Toi
Les Dérobades
Nostalgie
Julio Iglesias with English
Lovesongs:
Spanish, typically/Historia
De Un Amor:
Lời kết cho bài viết, Julio Iglesias đã mang giọng truyền cảm thiên bẩm phục vụ giới thưởng ngoạn yêu mến tài năng của anh trên khắp hoàn vũ. Anh ca chuẩn giọng hơn 7 ngôn ngữ thông dụng, những tài năng ca đa ngôn ngữ trên thế giới thật sự không nhiều lắm. Nếu thuở ban đầu bộ môn đá banh đã cột chặt đời anh, có thể làng âm nhạc quốc tế ngày nay không có một ca nhạc sĩ tài ba, đã chinh phục hằng triệu tâm hồn say mê nghệ thuật ca hát của anh. *** Il Faut Toujours Un Perdant Vois...
Nguồn: Datanet on Julio Iglesias Biography, Enrique Iglesias website, People Magazine, Wikipedia. |
|