Số
39 / những bài đưa lên sau ngày 15 - 05 - 2010
|
. Nguyễn
Quý Đại:
Cộng
Hòa Nam Phi (Republic of South Africa/Republik Südafrika, là quốc
gia đầu tiên của lục địa Phi Châu tổ chức giải Túc Cầu
Thế Giới (World Cup) Hàng tỷ người trên thế giới đã theo
dõi ngày khai mạc11.6.2010
tại sân Soccer
chứa tới 94,700
khán giả, kinh phí hơn 440 triệu USD,(là nơi cựu tổng thống
Nelson Mandela đọc bài diễn văn đầu tiên ở Johannesburg sau
khi ra tù) với 32 đội tuyển quốc gia từ các châu lục về
tham dự. Các đội tuyển được chia thành 8 bảng A-B-C-D-E-F-G-H,
các đội
tranh tài,
thể hiện tinh thần quốc gia, với
hy vọng được vào chung kết đoạt cúp vàng "Jules Rimet"
mang lại niềm tự hào cho dân tộc.
WORLD CUP 2010 sôi động làm
thế giới chú ý đến quốc gia Nam Phi với những cảnh đẹp
tráng lệ, của hệ thống lưu thông, hải cảng, phi trường,
nhà ga, và 10 sân vận động tân tiến quốc tế.
. Sóng Việt
Đàm Giang :
Sau khi bài viết Mối
Tình Học Trò của tác giả Nam Minh Bách nói về nhạc sĩ
Dương Thiệu Tước và nguyên do sự ra đời của bản nhạc
Ngọc Lan của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước thì có một số
thư trên các diễn đàn bàn về ý nghĩa lời bản nhạc. Mục
đích của bài viết ngắn này không bàn về lý do hay nội
dung tuyệt diệu của bài nhạc mà chỉ bàn về ý nghĩa và
xuất xứ của một vài điển tích mà Nhạc sĩ Duơng Thiệu
Tước đã nhắc đến trong bài.
Những câu thơ Kiều trích
dẫn trong cuốn Nguyễn Du, Tác Phẩm và Lịch sử văn bản
của Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính. Những dị bản của
tác giả khác được đính kèm nếu có.
Ngọc Lan
Ngọc Lan, dòng suối tơ vương,
mắt thu hồ dịu ánh vàng
Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng
nghiêng,
tà mây cánh phong, nắng thơm
ngoài song
(...)
. Quỳnh
Chi :
Nếu
tôi hở môi mà rằng "Con tôi dễ thương lắm", thể nào thiên
hạ cũng cả cười. Vâng, có ai lại ghét con mình bao giờ
đâu. Vì vậy cũng chẳng gì quý hóa để làm như thể mỗi
mình mình có được báu vật trời ban, mà người ta cười
cho. Cho nên tôi chẳng dám lớn tiếng khoe khoang. Mà tình thật
là tự đáy lòng, tôi chỉ muốn chắp tay tạ ơn Trời Phật,
chứ nào có nghĩ gì đến chuyện thương hay ghét đâu ạ.
Con tôi quả là vị thần hộ
mệnh của tôi.
Con tôi còn là đứa bé nằm
ngửa u ơ nhoẻn miệng cười, thế mà cái điều tôi học
được từ gương mặt ngây thơ kháu khỉnh ấy mới thật
là to tát, thật không lời nào tả xiết. Những điều ta học
với thầy, hay đọc được trong sách vở nhà trường, quả
thực là hữu ích, nhưng mỗi khi có việc gì phải nhớ lại
để suy ngẫm xem có phải là thế này thế kia không, không
như nụ cười của con thơ ở ngay trước mắt mình, đã khiến
cho chân toan bước đi cũng phải chùn lại, lòng đang bấn
loạn cũng bỗng dịu xuống.
--->
Đứa
con (nguyên tác: Kono Ko của
Higuchi Ichiyo )
Dùng
chanh để trang điểm là điều duy nhất mà cô gái dám tiêu
sang. Vì vậy mà da cô trắng mịn như mùi thơm rất thanh tân.
Cô cắt quả chanh làm tư, mỗi ngày lấy một miếng chanh ấy
vắt lấy nước bôi lên mặt. Ba miếng còn lại cô lấy giấy
mỏng bịt kín vết cắt, cất đi để dành. Hàng ngày phải
ướp lạnh làn da bằng mùi thơm tươi mát của nước chanh,
cô mới thực sự cảm thấy buổi sáng của một ngày. Cô
xoa nước vắt trái cây ấy lên vú và đùi mà không cho người
đàn ông biết. Anh ta vừa hôn cô vừa nói :
- Chanh à. Em là cô gái bơi trong
giòng sông chanh đến. Nếm vị chanh rồi muốn ăn cam quá.
Cô đáp "Vâng" rồi đem một đồng
bạc trắng năm xu đi mua một quả cam mang về. Như thế là
cô đành phải hy sinh niềm vui cảm thấy có chanh trên làn
da sau khi tắm ra. Ngoài đồng bạc trắng và mùi chanh, họ
chẳng có gì cả. Thế rồi người đàn ông ngồi trước đống
tạp chí cũ chồng lên làm thành bàn mà viết kịch, một vở
kịch ế ẩm, mà lại dài lòng thòng nữa chứ.
. LaiQuangNam
:
Nguyễn Du làm bài thơ "Phản
chiêu hồn" (chống lại việc chiêu hồn) trong một chuyến
đi sứ Trung Quốc vào đầu thập niên 10 của thế kỷ 19 .
Chiêu hồn: một tên bài từ của Tống Ngọc người cùng thời
với Khuất Nguyên. Tống Ngọc làm nhằm mục đích cầu hồn
Khuất Nguyên được siêu thoát , hồn về sống cùng nhân dân
Sở . Nguyễn Du khi đi ngang qua sông Mịch La, tỉnh Hồ Nam.
Người nhớ tại nơi đây Khuất Nguyên đã trầm mình. Tống
Ngọc người đồng thời, cũng là lớp học trò Khuất Nguyên
đã cho lập trai đàn cầu hồn và đã làm bài từ "Chiêu Hồn
" tại bờ sông này . Quá hiểu rõ nước Tàu , Cụ Nguyễn
bèn làm bài thơ "Phản chiêu hồn" này để phản đối ý kiến
" tử tế " của Tống Ngọc. Cụ Nguyễn bình sinh vốn người
hiền lành, nho nhã , nhưng với con người có học vấn cực
kỳ thâm hậu ấy đã đi là đã thấy trên đất nước Tàu,
Cụ không thấy quá khứ thời Khuất Nguyên nhưng hiện trạng
Tàu qua những nơi Cụ đã qua bây giờ nào khác chi hồi ấy.
Tàu là một xứ sở không mấy tốt trong thực tế trước
mắt Cụ (1)
Có lẽ đây là bài thơ tranh luận
hơn thua duy nhất trong đời làm thơ của Cụ .
Bài thơ laiquangnam giới
thiệu sau đây mang tên là Thu chí (Thu đến),một bài thơ chữ
Hán của Nguyễn Du. Mùa thu là mùa của thi nhân, Mùa thu là
cụm từ ước lệ. Người xưa dùng mùa thu để tự vấn,
tự soi rọi về cuộc đời ;mình đã làm được những gì
và đời mình sẽ về đâu. Ngẫm nghĩ về chuyện tử sinh.
Chúng ta cùng biết rằng Nguyễn Du là con người của sách
vở, ông đọc rất nhiều thơ Đường, những ý thơ và điển
tích Tàu ông đưa vào thơ rất bàng bạc và được vận dụng
rất khéo, nó đã tiêu hóa trong ông và được chuyển thành
ý rất riêng trong ngôn ngữ thơ mang dấu ấn của ông.
Ngày nay ai đó dẫn thơ Đường
vào mỗi câu thơ của ông tôi cho là điều bất kính đối
với tiền nhân ta ,bởi những ý nghĩ mang tính Nhân Loại thì
dân tộc nào cũng có, thời nào cũng có, khác chăng là người
nào nói trước và có điều kiện nói trước mà thôi. Sinh
trước thì nói trước. Thế nên,theo laiquangnam , nguòi Việt
mình nên viện dẫn ca dao Việt để chú thích thơ tiền nhân
là điều nên làm và ai đó viện dẫn thơ Đường để chú
thơ Nguyễn Du ông là dụng ý khoe chữ nghĩa của mình thì
xin dừng tay lại.
. Nguyễn
Dư :
Mời
các bạn đi... xem hát. Đúng hơn là xem chữ hát (h)... của
tiếng Pháp. Lại chuyện Ăn cơm nhà vác ngà voi! Ngà
voi còn nhẹ chán. Ngà mammouth cũng đành phải xông vào mà
vác. Vác giùm cho... lịch sử, địa lí Việt Nam. Ủa ! Trời
đất ! Đùa hay thật vậy ?
Xin phép các vị khoa bảng
văn chương Pháp cho " múa rìu " bằng vài câu... biết rồi,
khổ lắm, nói mãi.
Tuy bảng mẫu tự của tiếng
Pháp chỉ có một chữ h nhưng mẹo văn phạm lại phân biệt
" h câm " (h muet), và " h kêu " (h aspiré).
- " H câm " chỉ có mặt
lấy lệ. Có miếng chứ không có tiếng.
- " H kêu ", gọi là kêu nhưng
thực tế thì cũng im hơi lặng tiếng như... " h câm " !
Chuyện người Pháp không phát
âm chữ h đứng đầu một từ thì ai cũng biết rồi, mắc
mớ gì phải đem ra phân bua với người Việt ? Xin lỗi hơi
dài dòng. Ai nóng tính hãy khoan bực mình. Các cụ có câu Câm
hay nói, què hay đi. Câm như La baie d'Along thì Vịnh
Hạ
Long cũng hết chỗ nói. Chịu thua. Tiếng Pháp "hát " như
vậy mới chướng tai người Việt.
Bây giờ xin qua chuyện... đáng
nói. Nói về vài địa danh của nước ta.
- Hòn Gai.
Hòn Gai (Từ điển
Larousse
(1986) viết là Hôn Gai, Hongay) thuộc tỉnh Quảng Ninh, được
nhiều người biết tên từ ngày có Công ti than Bắc kì của
thực dân Pháp (Société Française des Charbonnages du Tonkin)
đến khai thác than đá.
Tên Hòn Gai rất quen thuộc
này gốc gác ra sao?
. Thu Tứ :
Trong Việt Nam văn
hóa sử cương, Ðào Duy Anh nhận xét người Việt "bắt
chước, thích ứng và dung hóa (...) rất tài."(2)
Trong Tư tưởng phương Ðông...,
Cao Xuân Huy cho rằng người Việt "có cái đặc tính mềm mại,
uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, như nước", "Nước (...)
dễ tính (...) không phải là vì nó không có cá tính. Trái
lại, đó là cái khả năng thích ứng vô hạn của nó (...)
chính cái khả năng thích ứng (...) là cái tính ưu việt, cái
bí quyết sinh tồn của dân tộc ta."(3)
Hai học giả, hai cách nói,
nhưng không có gì để nghi ngờ: Ðào Duy Anh và Cao Xuân Huy
chính đang phát biểu về cùng một nét nền tảng quan trọng
trong bản tính dân tộc. Cả hai hẳn đã dựa vào diễn biến
lịch sử, quá trình phát triển xã hội, và nề nếp sinh hoạt
mà rút ra kết luận ấy.
(...)
Hồ Xuân Hương có câu thơ:
"Xanh om cổ thụ tròn xoe tán".
Xanh om là xanh thế nào?
Xanh om có phải là xanh um không?
Xanh om có liên hệ gì với
tối om chăng?
... BIẾT ÐÂU TÌM
Từ, muốn biết nghĩa chính
xác, thì tra từ điển. Tra xong
Ðại từ điển tiếng Việt
(ÐTÐTV): không thấy xanh om.(1) Nhân tiện, lật tìm xem
các loại màu xanh được định nghĩa trong sách ấy. Lạ, sách
dày gần 2000 trang khổ to, chứa hơn 120000 mục từ, mà xanh
bệch, xanh bợt, xanh chành, xanh lướt, xanh mái, xanh mịt, xanh
nghít, xanh mởn, xanh muốt, xanh mướt, xanh mượt v.v. đâu?
Khái Hưng: "bát canh cà chua
nước đỏ lờ lờ". Nguyễn Tuân: "phản nịnh mặt trắng
mốc có vệt đỏ nhờ nhờ".
Chinh Phụ: "Cỏ biếc
um, dâu mướt màu xanh". Vũ Bằng: "những ngọn rau muống chẻ
nhỏ xanh muôn muốt". Nguyễn Tuân: "tóc xanh mượt như một
làn rêu giữa làn suối trong".
Lờ lờ với nhờ nhờ là
hai. Mướt với muốt với mượt là ba. Không thể trao qua đổi
lại gì cả.
Cũng thế: xanh nhạt và xanh
nhợt cùng chỉ màu xanh không đậm, nhưng chỉ các ông tây
ông tàu (nói tiếng Việt) mới dùng lẫn lộn. Rắc rối ở
chỗ xanh nhạt không hữu cảm: "tường phòng bệnh quét vôi
xanh nhạt"; trong khi xanh nhợt lại không phải là từ chỉ
màu thuần túy nữa, mà cho thấy một ấn tượng nơi người
nhìn: "người bệnh nom xanh nhợt". Ðổi chỗ nhợt với nhạt
là lộ tung tích ngay!
Lạ hơn nữa, nói người bệnh
nom xanh nhạt là nói tiếng Việt gốc tây gốc tàu, mà nói
người bệnh nom xanh lợt dường như cũng vẫn không ổn. Trường
hợp này, chỉ nhợt mới đích thị... con Rồng cháu Tiên!
. Cát Hoàng
:
Vừa
qua ngày Cá tháng tư (1/4) trời đã đổ cơn mưa đầu mùa.
Mưa chợt đến chợt đi như "Nàng thơ tình", đủ ướt mà
không lạnh... gợi nhớ đến những cơn mùa đầu mùa (mối
tình) lướt qua đời, ai muốn quên mà vẫn nhớ?
Tôi sinh ra, lớn lên từ giồng
cát, ruộng, vườn nên càng có nhiều kỷ niệm với mưa.
. Phanxipăng
:
Vì
sao gọi bánh khoái? Tồn tại 2 cách trả lời. Cách thứ nhất
là lúc chế biến bánh trên bếp, khói xông nghi ngút, tỏa
làn hương bay xa hấp dẫn muôn người. Khói, dân Huế phát
âm khoái. Tên bánh hình thành từ đó. Cách thứ nhì là cảm
giác của thực khách thu nhận khi thưởng thức món bánh này:
khoái nhãn, khoái nhĩ, khoái khẩu, khoái chá, khoái lạc, khoan
khoái, sảng khoái. Cổ nhân bèn gọi bánh khoái, vừa tiện,
vừa gọn, vừa chính xác, vừa dễ nhớ.
. Giới
thiệu nhạc :
. Nguyễn
Văn Thơ :
-
Em
và thơ (Thơ:
Luân Hoán /cs :Kim Khánh)
-
Mưa
chiều tháng sáu (Thơ Mai Hoài Thu/Quỳnh
Lan )
- Xuân
mòn (Thơ : Đặng Lệ Khánh/cs : Kim
Khánh )
Truyện
ngắn - Ký - Văn - Biên khảo |
. Võ Quang
Yến :
Trong
nhiều thế kỷ, nghệ thuật Phật giáo không trình bày đức
Phật qua hình dáng con người mà biểu thị Ngài qua hình thức
một chiếc lọng, một cái ngôi, một vết chân hay con ngựa
của Ngài. Qua đầu Công nguyên, phong cách Hy-Ấn Gandhara và
những trường phái điêu khắc Ấn Độ cùng lúc thực hiện
những hình tượng Ngài cũng như những vị Bồ Tát qua nhiều
bộ điệu khác nhau với những cử chỉ được xếp thành
quy tắc. Những
mudra mà người Tàu gọi là yin, người
Nhật in-zô, ta dùng chữ
ấn, thủ ấn, hay thành
ngữ
ấn quyết, tiêu biểu cho quyền lực và hiện hình
thần thánh. Thật ra, những cử chỉ nầy đã có từ trước
vừa trong tranh ảnh Ấn giáo, vừa trong kỹ thuật du già hay
yoga, được xem như là một phương pháp giải thoát, nghĩa
là chúng không thuộc về một tôn giáo nào. Người ta thường
gặp chúng trong những tranh vẽ, những hình tượng điêu khắc
cũng như trong những cuộc hành lễ tinh thần, thờ cúng, nghi
lễ, định tâm...
Orsay,
một thị trấn ở miền nam Paris, phía bắc thung lũng Chevreuse,
rất có duyên với Việt Nam vào mùa thu. Năm 1994, vào thời
Đại học Orsay kết nghĩa với hai Đại học Tp Hồ Chí Minh
và Cần Thơ, thị xã tổ chức cả một tuần Việt Nam với
sự tham dự của nhiều nhà kinh tế học, nghệ sĩ, họa sĩ,
võ sĩ, nhạc sĩ đứng đầu có anh giáo sư Trần Văn Khê.
Năm 2002, chị Hỷ Khương, nhân chuyến đi Đức để giới
thiệu vở Đông Lộ Địch của thân phụ cụ Ưng Bình,
trên đường về có ghé lại Phật đường Khuông Việt ở
Orsay để gặp gỡ bà con bạn bè trong một buổi văn nghệ
hào hứng. Huế nay lại có mặt ở Orsay hôm chiều chủ nhật
15 tháng 11 năm 2009, ở nhà hát Jacques Tati, trong một chương
trình rất hấp dẫn
Đường về Kinh thành Huế (La Route
vers la Cité Impériale de Hué). Đứng ra tổ chức là nhóm Nhóm
Văn hóaCổ truyền Nhạc học và Giáo dục (OCTAVE : Orsay
Culture Musique Tradition Association Vietnam Education) dưới sự hướng
dẫn của cô Đỗ Duy Nguyệt Ánh, nghệ sĩ đàn tranh.
. Nguyễn
Vĩnh Tráng :
Vì
tôi may mắn nắm được bộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển
Sự Lệ - KĐĐNHĐSL (1) cùng bài « La Capitale du Thuân-Hoa »
của Cụ Võ Liêm, đăng trên Bulletin des Amis du Vieux Huê - BAVH,
tháng Juillet 1916 (2). Nhận thấy những tài liệu rất hiếm
: bài của Cụ Võ Liêm cho tên các nhân vật, các công trình
bằng chử Hán, còn bộ KĐĐNHĐSL thì có nhiều chi tiết về
kích thước, thời điểm, nhân công, lương hướng. Lấy ưu
điểm của hai bên mà bổ sung cho nhau, có thể cho ta một cái
nhìn khá chính xác về việc xây cất Đô-Thành. Cũng vì thế,
tôi đã viết bài nầy, hầu cống hiến qúy vị độc giả
một tài liệu đáng qúy cho ngày nay.
(...)
Kinh
thành Huế bây giờ không phải là vị trí đầu tiên của
Đô-Thành Thuận-Hóa...
. Vĩnh
Phúc :
Vương
triều nhà Nguyễn từ khi mới lập nghiệp ở phương Nam đã
sớm biết sử dụng nghệ thuật âm nhạc để "di dưỡng tinh
thần" và để biện chính cho sự nghiệp bá vương của mình
trong thế đối lập với nhà Trịnh ở Đàng Ngoài. Ngay từ
đời
chúa NguyễnPhúc Nguyên (1613 - 1635) Lộc Khê hầu Đào Duy Từ
đã
lập ra Hòa Thanh thự luyện tập một ban vũ và
nhạc để múa hát vào những ngày khánh lễ.
Hòa
Thanh thự gồm 3 đội...Đội Nhất và đội Ba trông coi về
nhạc, đội Nhì trông coi về ca và vũ. Cố nhiên,
đây chưa phải là Nhã nhạc, nhưng đã tạo dựng nền tảng
nghệ thuật chuyên nghiệp, làm tiền đề cho âm nhạc cung
đình các vương triều sau.
Sang thế kỷ XIX, dưới các
triều vua nhà Nguyễn, các loại hình nghệ thuật cung đình
mới thực sự phát triển theo mô thức, quy phạm của Nhà
nước Phong kiến. Ngay từ khi Gia Long lên ngôi (1802) mặc dù
còn bận sắp đặt lại chính quyền trong nước, chỉnh đốn
lại sinh hoạt cho nhân dân nhưng không vì thế mà ít quan tâm
đến âm nhạc. Nhiều sử liệu cho biết vua Gia Long đã cho
thành lập hai đội
Tiểu nam và Tiểu hầu chuyên
trông coi về nhạc và luyện tập múa hát trong cung. Năm Gia
Long thứ ba, hai đội này được hợp nhất lại dưới tên
Việt
tương đội....
. Nguyễn
Thị Chân Quỳnh :
1010
- Năm Canh Tuất tháng 7, Lý Thái Tổ đóng đô ở Thăng Long,
dựng điện Càn Nguyên trên núi Nùng cũng gọi là núi Long
Đỗ (1), làm nơi coi chầu, phía trước là Long Trì (thềm rồng)
cao 9 bậc, tả hữu có hai con rồng dài trên một trượng.
Bên tả điện Càn Nguyên là điện Tập Hiền, bên hữu là
điện Giảng Võ, mở cửa Phi Long thông sang cung Nghênh Xuân,
cửa Đan Phụng thông sang cung Uy Viễn, chính hướng Nam là
điện Cao minh, đều gọi là "Thềm rồng". Bên trong Thềm Rồng
có mái cong, hang hiên bao quanh bốn mặt.
Sửa điện Càn Nguyên, dựng
hai điện Long An, Long Thụy làm nơi nghỉ ngơi của vua. Bên
tả làm điện Phật Quang, bên hữu làm điện Nguyệt Minh ,
đằng sau dựng hai cung Thúy Hoa và Long Thụy làm chỗ ở cho
cung tần.
Dựng kho tàng, đắp thành,
đào hào. Bốn mặt thành mở bốn cửa : phía Đông là cửa
Tường Phù, phía Tây là cửa Quảng Phúc, phía Nam là cửa
Đại Hưng, phía Bắc là cửa Diệu Đức (2).
Cung Long Đức của Thái tử
dựng ở ngòai cửa Đại Hưng....
. Nguyễn
Bá Lăng :
Chùa
Một Cột ở Hà Nội hiện nay là tên quen thuộc của Liên
Hoa Ðài dựng trong khuôn viên của một quần thể kiến trúc
chùa, gồm chính điện thờ Tam Bảo, nhà Tổ, nhà khách v.v.
được gọi chung là chùa Diên Hựu (lấy tên đầu của Liên
Hoa Ðài).
Chùa Một cột nổi danh vì
kiến trúc độc đáo là một lầu gỗ hình vuông đặt trên
một cột đá trồng giữa một hồ nước. Lầu được củng
cố bằng một hệ thống con sơn sóc nách bằng gỗ. Tất cả
tượng hình cho một bông sen vươn lên khỏi mặt nước, do
đó mà có tên là Liên Hoa Ðài.
Liên Hoa Ðài theo sử biên
niên đã được dựng vào thời Lý năm 1049. Ðại Việt Sử
Ký Toàn Thư ghi:
"Mùa đông
tháng 10 âm lịch, dựng chùa Diên Hựu ở vườn Tây cấm (bên
phía Tây cấm thành Thăng Long). Trước đấy vua Lý Thái Tông
(1028-1054) chiêm bao thấy Ðức Phật Quan Âm ngồi trên tòa
sen, dắt vua lên tòa. Khi vua tỉnh dậy, vua đem việc đó nói
với bầy tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư
Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ,
làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột trụ như đã
thấy trong mộng. Cho các nhà sư đi vòng lượn chung quanh tụng
kinh, cầu cho vua trường thọ". Vì
thế gọi là chùa Diên Hựu (kéo dài tuổi thọ)...
. Sóng
Việt Đàm Giang :
Tác giả Bồ Tùng Linh
(P'u Sung Ling/1640-1715) là người đất Tri Xuyên (hay Chuy Xuyên),
tỉnh Sơn Đông, sinh vào năm 1640, cận những năm cuối cùng
của nhà Minh (1368-1644). Tự là Lưu Tiên, Kiếm Thần, hiệu
là Liễu Tuyền. Dưới triều vua Thuận Trị (Thanh Thế Tổ,
nhà Thanh 1644-1911), đậu tú tài (đồng tử) năm 1658 lúc 18
tuổi, đậu cử nhân (cống sinh) thời Khang Hy năm 1711 khi ông
được 71 tuổi.
Dù đậu tú tài năm 18 tuổi,
nhưng sau đó thi hỏng liên miên nhiều lần. Vì sinh kế, ông
cất một ngôi nhà nhỏ, đơn sơ, ở nơi vằng vẻ, đặt tên
là Liêu Trai (phòng học, phòng đọc sách sơ sài tạm bợ).
Nơi này ông dùng để mở lớp dạy học, họp mặt, uống
rượu ngâm thơ với các bạn.
Trong suốt thời gian hơn 40
năm từ khi thi hỏng liên miên đến khi đậu cử nhân, ông
trước tác nhiều bằng cổ văn, nhưng nổi tiếng nhất là
bộ chuyện ngắn thần tiên ma quái Liêu Trai Chí Dị.
Viết theo lối thuật lại,
những chuyện kể thường xẩy ra vào thời gian cuối nhà Minh
và sau đó là đầu nhà Thanh, ở những vùng quanh quẩn nơi
ông ở.
Nhiều bản dịch sau này không
phản ảnh đầy đủ nội dung, chỉ trú trọng vào nội dung
ma quỷ, yêu quái mà đặt nhẹ những ngụ ý về nhân tình
thế thái.
. Phạm
Xuân Hy :
Lã
Bất Vi ( ?-235 trước CN), là người Bộc Dương nước Vệ
thời Chiến Quốc, nguyên là một thương gia, tại kinh đô
Hàm Đan của nhà Triệu, Lã Bất Vi gặp Tần Công Tử là Dị
Nhân, lúc đó bị nước Tần phái sang làm nhân chất ở nước
Triệu.
Lã Bất Vi cho rằng Dị Nhân
có thể là " kỳ hóa khả cư ", nên Lã Bất Vi vào nước Tần
du thuyết Hoa Dương Phu Nhân, ái thiếp của An Quốc Quân, lập
Dị Nhân làm Thái Tử.
Đến khi Tần Trang Tương Vương,
tức Dị Nhân, lên nối ngôi cha, bổ nhiệm Lã làm Tướng
Quốc, phong làm Văn Tín Hầu.
Khi Tần Trang Tương Vương
qua đời, Tần Vương Chinh mới có 13 tuổi lên Kế Vị, Lã
Bất Vi kế tục giữ chức Tướng Quốc, hiệu là Trọng Phụ,
thực ấp hai huyện ở Lam Điền, và 20 hộ ở Lạc Dương
Hà Nam. Lã Bất Vi còn lợi dụng sự mâu thuẫn của hai nước
Yên và Triệu, được Triệu, được Yên hiến cho mười thành
trì ở Hà Giang để làm phong ấp ( vùng đông nam huyện Hiến
tỉnh Hà Bắc. )
Trong thời kỳ chấp chính,
Lã Bất Vi tấn công các nước Chu, Triệu, Ngụy và chiếm
đất của những nước này để thành lập các quận Tam Xuyên,
Thái Nguyên, Đông Quận. Trong nhà Lã Bất Vi, môn khách có
đến ba ngàn người, gia đồng có cả vạn đứa.
. Minh Hương
:
Ông
đi dọc theo bờ biển, ngược chiều gió. Mái tóc hoa râm bay
loà xoà xuống trán. Áo sơ mi mỏng dán lên khuôn ngực còn
nở nang vạm vỡ. Bầu trời xám xịt, ngoài khơi vẫn mịt
mù, gió bắc thổi từng cơn. Sóng biển ào lên tung bọt trắng,
liếm vào bờ xoá đi dấu chân ông vừa để lại trên cát.
Hình như ông chẳng để ý gì đến sự hoang dã của biển
cũng như sự hiện diện đơn độc của mình trên bờ biển
chiều nay. Nhưng kia, phía trước nơi kè đá, lại vẫn cô
gái trẻ tóc cắt ngắn như con trai đang đứng nhìn hút ra
tít ngoài khơi. Dáng đứng bất động, sự chờ đợi của
cô gái khiến ông phải chú ý. Cô xuất hiện như thế đã
ba buổi chiều liên tiếp. Ông không biết cô có hẹn với
ai, chỉ thấy hôm nào cô cũng lặng lẽ quay về một mình
với dáng vẻ buồn buồn xa vắng.
Vị
chát ngọt của nước chè xanh làm tôi vơi đi nỗi bồn chồn.
Bên quầy bán sách báo, tiếng hát từ băng catset lại cất
lên.
"... Những
chiếc gỏi xe chở đầy hoa phượng,
Em chở mùa
hè của tôi đi đâu?
Chùm phượng
vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám ..."
Bà chủ
quán nước nói vọng sang:
- Hết bài
hát rôi hay sao mà từ sáng đến giờ chú mở mãi có một
bài thế?
Gã bán sách
đang xếp lại mấy quyển sách cười hề hề:
- Bác ơi!
Bác có thấy bọn trẻ đang túm tụm trong sân trường kia không?
Chúng chuẩn bị chia tay nhau trước khi từ biệt trường phổ
thông đấy. Trong đám các chàng trai ấy, khối anh đang ngớ
ngẩn vì các nàng tiên từ cung trăng xuống đang lả lướt
trong tà áo dài thướt tha kia kìa. ...
. Phạm
Thảo Nguyên :
Khi
cưới tôi về ở với gia đình trong Nam, chồng tôi chỉ có
mẹ, chị, và anh thứ hai đã ra ở riêng. Bố và anh lớn của
anh ở ngoài Bắc, đã mười tám năm không gập mặt.
Mẹ người tầm thước, vừa
người, vấn khăn vải, ăn trầu và còn răng đen. Mẹ là người
cổ kính, ăn nói nhỏ nhẹ, không thấy to tiếng bao giờ. Mẹ
rất hiền và nghe theo ý của các con, nhất là ý chị lớn.
Việc mẹ bằng lòng cho con trai lấy tôi, một cô bạn học
của anh, theo đạo Phật, và chấp nhận tôi không phải theo
đạo Chúa, được xin "miễn chuẩn dị giáo ", là do
các con khuyên được. Mẹ chăm lo cho các con, dù đã lớn,
từng miếng ăn, giấc ngủ. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khóc,
ngay cả khi tiễn con cháu đi xa không biết bao giờ mới trở
lại. Mẹ nói mẹ không còn nước mắt...
. Lê Hoài Nam
:
Tuổi
thơ của tôi trôi qua trong chiến tranh. Thủa ấy miền Bắc
chưa có nhiều phương tiện nghe nhìn. Chúng tôi chưa trông
thấy cái ti vi bao giờ. Chiếu bóng thì xem ở ngoài bãi cỏ,
sân đình, mà cả năm cũng chỉ vài ba lần. Cả cái làng Nam
Phú của tôi chỉ có hai cái đài bán dẫn: một của gia đình
người từ Tân-thế-giới mới về nước, một của ông chủ
tịch xã.
Âm thanh thường xuyên dội
vào thính giác của tôi là ba thứ rất đối nghịch nhau: tiếng
bom, tiếng chuông nhà thờ Thiên Chúa và tiếng hót của các
loài chim. Có thứ giọng hót của loài chim đã trở thành một
phần quan trọng trong đời sống tinh thần của tôi, nó ám
ảnh tôi cho đến tận bây giờ, đó là tiếng hót của chim
hoạ mi.
Những
người yêu thiên nhiên, có đôi tai nhậy cảm một chút đều
thừa nhận, sơn ca cũng như hoạ mi, là hai loài chim quý. Giọng
hót của hai loài chim này không thể có tiếng hót loài chim
nào sánh nổi.
Quê hương của hoạ mi là
tất cả những quốc gia có khí hậu ôn đới. Quê hương của
sơn ca phổ biến ở những vùng nhiệt đới. Miền nam đồng
bằng châu thổ sông Hồng quê tôi, cứ đến mùa lạnh thì
hoạ mi mới từ các tỉnh biên giới phía bắc bay về. Còn
chim sơn ca thì sinh ra, lớn lên, sinh con đẻ cái ở đây. Cứ
cánh đồng nào có nhiều đồi, gò, lắm bụi cây hoang dại,
triền sông rậm rạp là ở đó có chim sơn ca trú ngụ.
. Hồ Đắc
Duy :
Trong
Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) quyển V trang 217 có chép như
sau : "Cách huyện Cửu An 22 dặm về phía nam có một con sông
gọi là Sông Song Ma. Tương truyền ngày trước người con gái
nhà giàu, tuổi cập kê, mê người học trò họ Nguyễn, mà
người học trò thì người nhà nghèo, không dám nhờ mối
lái nói việc kết hôn, vì thế người con gái mắc bệnh
tương tư trầm trọng rồi chết; cha mẹ cô rất đỗi
thương tiếc, không nỡ chôn vội, bèn làm cái rạp sau nhà
làm chỗ quàn; vì cô gái đã chết, cậu học trò bèn thắt
cổ chết ở cạnh chỗ quàn, người ta quàn chung họ lại
với nhau. Do đấy âm khí kết tụ lâu ngày thành yêu tinh.
Sau đó cha mẹ cô gái ấy đều chết, không ai chôn cất thành
ra chỗ quàn xác 2 người, cây cối mọc lên như rừng, yêu
khí càng ngày càng thịnh, người ta khó chịu, bèn gọi chỗ
ấy là xứ Song Ma, để bảo nhau xa tránh. Sau quân Tây Sơn
đánh chiếm cứ khu vực này cho thiêu hủy nhà quàn, yêu quái
mới hết hẳn".
. Việt
Hải :
Sáng
nay thức giấc, mở máy vi tính ông bạn vàng của tôi bên
bang Penn Siu, thành phố Phila gửi sang bảo là muốn xơi món
cơm Gà Siu Siu, một món ăn quốc hồn quốc túy bên gia đình
nhạc gia của tôi. Kể từ khi cuộc sống của tôi bị nàng
Kiều gốc Bông đô hộ, tôi dần dà bị lôi cuốn bởi những
món nghe như một bầu trời Quảng Đông rộng mở. Này nhé,
cơm chiên cá mặn, cơm diệp nấm đông cô, cơm vịt xí muội,
cơm đào trần bì, cơm kình ngư ngũ vị, cơm vịt hầm tứ
bửu, canh gà thiện rong biển,...
. Phạm Vũ Thịnh
:
1969, tụi tôi
năm ấy mới 17 tuổi. Và còn
đồng trinh. 17 tuổi mà
còn đồng trinh cũng chẳng phải là chuyện gì đáng tự hào
hoặc đáng xấu hổ, nhưng đấy là chuyện quan trọng.
Mùa đông khi vừa được 16
tuổi, tôi đã bỏ nhà ra đi. Lý do là cảm nhận được mâu
thuẫn đối với thể-chế-học-thi-lên-đại-học, muốn thoát
ly gia đình và trường học để xuống đường phố mà chiêm-nghiệm
về ý nghĩa cuộc đấu tranh trong năm ấy của 3 hệ-phái thuộc
Liên
hiệp Sinh viên Học sinh Toàn quốc chống Hàng không Mẫu
hạm nguyên tử Enterprise của Mỹ vào cảng, ...... là nói dóc,
thật ra, chỉ vì tôi muốn trốn khỏi cuộc chạy đua trong
trường mà thôi. Bởi chạy đua đường trường thì từ xưa
đã vốn là chỗ yếu của tôi. Từ hồi trung học cấp hai
đã ghét chạy đua rồi. Tất nhiên là ở tuổi 32 hiện giờ,
tôi lại càng thậm ghét.
-"Ông nghĩ sao? Đề án của
tôi có chỗ nào không khả thi không?".
Người khách chuyển mình,
ghế ngồi vang tiếng
kin kít, ngón tay ông ta áp lên phía
dưới cằm như muốn ép mấy cọng râu cạo chưa sạch vào
trong lớp thịt, cuối cùng đáp:
-"Đâu có! Chúng tôi giao trọn
cho
ông, bởi đã hoàn toàn an tâm rồi mà... Có điều, chỗ cần
thay đổi lần này thì rất là căn bản, thay đổi đến cả
bản chất, cho nên..."
-"Tôi hiểu. Thay đổi như
thế là khó khăn lắm đấy. Bởi phải đổi phòng số 17,...
mà ông nhìn hoạ đồ này xem,... đây, bức vách hướng sang
phòng số 18 này, bảo là phải đổi sao cho thành liền vách
với phòng Tổng Giám đốc đấy..."
-"Đúng thế, đúng thế...".
Người khách cầm điếu thuốc không châm lửa nãy giờ mân
mê trong bàn tay, dí đầu thuốc chỉ trỏ trên hoạ đồ, cất
tiếng cười nhỏ có vẻ thích thú lắm.
-"Thế nhưng, phòng Tổng Giám
đốc là ở tầng ba đấy nhé. Trong khi phòng số 17 lại ở
tầng hai..."
-"Thế à? Chắc là xây hai
phòng ở tầng hai và tầng ba liền vách với nhau thì cần
kỹ thuật khó khăn lắm nhỉ?".
-"Chuyện này thì không thể
chỉ nói là khó khăn mà thôi đâu..."
-"Nhưng từ trước đến nay,
chúng tôi đã đưa đến ông đủ thứ yêu cầu khó khăn lắm
mà ông vẫn giải quyết tất cả hộ cho rồi đấy".
Đã quá
11 giờ đêm rồi mà phòng cuối tư dinh của quan Gia lão [1]
Sugiyama ở xóm Koumi gần hào thành phía bắc, vẫn còn sáng
ánh đèn. Có hai người khách là trưởng tổ Terauchi Gonbee
và Chưởng quản địa phương Otsuka Shichijuro. Gia chủ Sugiyama
Tanomo khoanh tay trầm mặc, chốc chốc lại thở dài, cuối
cùng đưa tay vỗ đầu gối rồi nói:
-"Thôi, dù sao đi nữa, cũng
phải đợi Hanzawa cho biết thêm thông tin đã".
-"Nếu xác nhận là đúng thì
phải xử trí như thế nào chứ?". Terauchi nói.
Sugiyama nhìn khuôn mặt dày
thịt hồng hào và đôi mắt tròn của Terauchi:
-"Lúc đó, hẳn là không thể
để mặc thế được". Lần này, bàn tay ông nắm chặt lại,
gõ xuống đầu gối như để khích lệ chính mình. -"Đến
phải đối đầu mà khai trừ Hori Shogen mới xong".
"Nhưng mà, vì sao lại cho
súng nổ thế?"
-"Có gì đâu, chỉ thử mình
gan dạ đến đâu đó thôi". Matasuke vừa nhìn khẩu súng treo
lủng lẳng, vừa đáp. Dây treo súng đã được gia giảm sao
cho mũi súng chĩa vào khoảng ngực của anh ta.
Theo lời Matasuke thì có vẻ
ở phiên trấn Satsuma, trò thử thách gan dạ quái quỷ này
đang thịnh hành. Cả đám người ngồi vòng tròn, súng treo
lủng lẳng từ trên trần nhà xuống, đốt dây dẫn lửa,
rồi cho súng quay vòng vòng, lửa bén lên theo dây, châm vào
thuốc súng phát xạ ở cuối nòng thì súng nổ. Ai rủi thì
bị trúng đạn, có khi mất mạng.
-"Một mình ngồi thử chơi
ấy mà".
-"...... À ra thế!".
. Nguyễn
Nam Trân :
Nhân
vào trang của cơ quan nghiên cứu Réseau-Asie trên mạng, tôi
tình cờ gặp bài tham luận bằng tiếng Pháp của nhà nghiên
cứu trẻ Frédéric Roustan (đọc tại cuộc hội thảo khoa học
về Á Châu do Réseau-Asie qui tụ các học giả và chuyên gia
về châu Á ngày 28-29-30 tháng 9 năm 2005 tại Paris). Lúc
đó, tác giả hãy còn là nghiên cứu sinh tiến sĩ sử học
tại Đại học Ngoại Ngữ Ôsaka. Trong tinh thần cầu học,
chúng tôi mạn phép ông để chuyển ngữ hầu các bạn đọc
quan tâm có thêm thông tin về lịch sử ngành nghiên cứu Việt
Nam ở Nhật Bản dưới cái nhìn của người thuộc một nước
thứ ba. Ông Roustan đã viết một luận án tiến sĩ vào niên
khóa 2006-2007 nhan đề "Xã hội sử cuộc di dân của người
Nhật vào miền bắc Việt Nam từ năm 1885 đến 1954" (Socio-histoire
de l’immigration japonaise à Tonkin entre 1885 et 1954) dưới sự
đồng chỉ đạo của hai giáo sư Gérard Noiriel (EHESS,
Paris) và Sakurai Yumio (Đại học Tôkyô).
Có thể
nói nội dung bài này phản ánh khá trung thực quan điểm của
tác giả Frédéric Roustan ở thời điểm 2005. Dĩ nhiên những
sơ sót về mặt kỹ thuật dịch và cách trình bày là trách
nhiệm của người dịch.
Có lẽ Higuchi Ichiyô là nhà văn
phái nữ chuyên nghiệp đầu tiên trong lịch sử văn học Nhật
Bản và là tác giả nữ đáng chú ý nhất kể từ năm 1280,
lúc nhật ký
Izayoi (Đêm trăng mười sáu) của bà Abutsuni
(?-1283) ra đời, nghĩa là 6 thế kỷ về trước.
Tên thời con gái là Natsu,
sinh vào năm Meiji thứ 5 (1872) ở vùng nội thành Tôkyô (nay
là khu Chiyoda), con một gia đình samurai nghèo. Cha bà, Noriyoshi
chỉ là một viên chức hành chánh nhỏ, mẹ là bà Taki.
(...)
Higuchi Ichiyo tức Natsu của
chúng ta lâm bệnh và mất năm 1896 tức lúc mới có 24 tuổi,
còn đang độc thân. Bà vất vả từ bé nhưng nhờ văn tài
và nghị lực nên đã bước vào văn đàn rất sớm. Cuộc
đời bà tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại một lượng tác
phẩm đáng kể. Tất cả là 21 tập tiểu thuyết ngắn và
trên 4000 bài thơ tanka. Ngoài ra bà còn có một tập sách dạy
phụ nữ viết thư (nhan đề Tsuuzoku shokanbun, có giá trị văn
học đáng kể) cũng như một số tùy bút. Đó là chưa kể
tập nhật ký bà ghi chép mọi việc xảy ra từ tuổi 15 cho
đến lúc cuối đời.
.
Phạm Thảo Nguyên :
Theo
gia phả dòng họ Nguyễn Tiên Điền: Nguyễn Du (1765-1820) lấy
bà họ Đoàn, con quan ngự sử Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh
Côi, trấn Sơn Nam nay là tỉnh Thái Bình vào năm 1783. Đến
năm 1786, khi Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất dẹp
chúa Trịnh, hai anh lớn là Nguyễn Khản và Nguyễn Điều bị
bệnh chết, Nguyễn Du về Quỳnh Côi lánh nạn, ở đó suốt
mười năm, thời gian này được gọi là thời kỳ Mười Năm
Gió Bụi (1786-1796). Tới 1796 mới trở về quê mình ở Châu
Hoan, dưới chân núi Hồng Lĩnh.
Nhưng, đọc các tác phẩm của
Nguyễn Du trong thời kỳ Mười Năm Gió Bụi này, rõ ràng những
năm đầu, ông không sống ở Quỳnh Côi, và có vẻ ông chưa
lấy vợ.
. Tâm Minh Ngô
Tằng Giao :
-
Tiểu
sử Chu Văn An
- 1.
Linh Sơn tạp hứng (Tạp hứng ở Linh Sơn) - 2. Thôn
Nam sơn tiểu khế (Tạm nghỉ núi thôn Nam) - 3. Thanh Lương
giang (Sông Thanh Lương) - 4. Cung họa ngự chế động chương
(Kính họa thơ vua) - 5. Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng
kính (Đêm trăng dạo chơi đường thông núi Tiên Du) - 6. Xuân
đán (Sáng mùa xuân) - 7. Sơ hạ (Đầu mùa hè) - 8. Vọng Thái
Lăng (Trông về Thái Lăng) - 9. Giang Đình tác (Lám thơ ở Giang
Đình) - 10. Miết trì - 11. Thứ vần tặng Thủy Vân Đạo Nhân
(Họa vần tặng Thủy Vân Đạo Nhân ) - 12. Đề Dương Công
Thủy Hoa Đình (Đề Đình Thủy Hoa của Dương Công) [PDF]
. Phạm Vũ Thịnh
:
-
Văn
Lân Gia Lý Tranh ( Từ An Trinh )
. LaiQuangNam
:
Hơn
4 thập niên về trước, hồi còn "mài đủng quần" ở ghế
nhà trường, học chết bỏ, chưa dám làm quen với rượu,
chữ nhàn còn quá xa lạ ,được học đôi câu thơ của Cao
Bá Quát lòng đã lấy làm thích, nhìn và nghe giáo sư văn chương
của mình mê say giảng bài hát nói "Thú Nhàn" trên bục gỗ
rước bảng đen trong lúc mà mỗi trang nhật báo lại đầy
tin chiến sự lại có ảnh minh họa vầng khăn sô trên đầu
người thiếu phụ, lòng biết bao cảm xúc, bài này có mấy
câu :
"Gõ nhịp lấy, đọc câu
"Tương Tiến Tửu"
"Quân bất kiến,
Hoàng Hà chi thủy thiên
thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục
hồi"
Làm chi cho mệt một đời!
"
Tương tiến tửu dịch
nôm là mời nâng ly, cũng là tên một bài thơ nổi tiếng của
Lý Bạch. Trong Cổ nhạc phủ có điệu Tương tiến tửu, nghĩa
là cùng uống rượu. Lý đã mượn tên riêng của điệu này
mà viết nên khúc này ...
|
Văn
học - Luận - Tư tưởng - Lịch sử - Thời đại |
. Thảo Đường
Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh :
-
Bách
Gia Chư Tử (tiếp theo)
( -Khổng
Tử - Các
đệ tử của Khổng Tử - 3.
Mạnh Tử. * 4.
Tuân Tử. * 5.
Lão Tử. *
6.
Trang Tử. *7.
Mặc Tử và môn đệ. *8.
Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Lý Tư và Lữ Bất Vi.*9.
Huệ Thi, Công Tôn Long và nhóm Tác Hạ. *...
)
. Lại Như Bằng
dịch :
Bài
thuyết trình của GS André Bareau (Giáo sư Collège de France)
tại Trung Tâm Văn Hóa Tin Lành dòng Luther, Paris, ngày 11 Tháng
12 năm 1984.
"Giê-su qua
cái nhìn của người Phật tử": đây là một đề tài lý
thú, nhưng quả thật là khó. Trước hết, trong tất cả những
đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách
đạo Ki-tô nhất trong giáo lý cơ bản và trên nhiều điểm
quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên
nhiều điểm khác. Thứ đến, với thời gian, trên con đường
phát triển, đạo Phật đã mang rất nhiều hình tướng khác
nhau, hội nhập vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều
dân tộc khác nhau, do đó giữa những người Phật tử có
thể có những "cái nhìn về Giê-su" rất khác nhau. Sau hết,
nếu chúng ta biết khá rõ về cái nhìn của người Phật tử,
nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất
hiếm khi được nghe nói đến quan niệm của họ về cá nhân
Giê-su ...
. Trịnh Nguyên
Phước :
Mở
đầu hội thảo đầu tiên, năm 1987, đức Đạt Lai Lạt Ma
đã có lời nhắn nhủ:
"Trước hết,
xin quí vị hãy nghiên cứu về những tác dụng tích cực của
thiền định. Nếu thấy kết quả tốt, xin hãy dậy lại điều
đó cho xã hội, trong tinh thần hoàn toàn thế tục, để cho
mọi người đều lợi lạc". Ngài còn bổ túc thêm: "Đây
không phải là một vấn đề đức tin và tín ngưỡng, mà
đúng hơn là một ưu tư về đạo đức và luân lý. Trách
nhiệm làm người thúc đẩy chúng ta phải dùng trí tuệ để
hiểu biết thiên nhiên và sự vận hành của tâm thức".
Trong tinh thần
đó, đã có một số đóng góp tích cực của các tăng sĩ,
thiền sư vào các thí nghiệm khoa học, như ghi và đo hoạt
động các vùng não trong khi thiền định, bằng những máy
móc tối tân như điện não đồ (EEG) đa điện cực, cắt
lớp phát positons (PET-scan) và cộng hưởng từ chức năng (fMRI).
Những trao đổi,
cộng tác này đã đưa tới những kết quả, tuy còn hạn hẹp
vì mới tiến hành từ khoảng hai chục năm nay, nhưng rất
thực tiễn và đầy triển vọng. Đồng thời hai bên cũng
không tránh khỏi gây nên tương quan ảnh hưởng lẫn nhau,
đạo Phật trên khoa học cũng như khoa học trên đạo Phật.
Trong bài này,
chúng ta sẽ lần lượt xem xét:
1- Định nghĩa
của neurosciences và một vài từ gần cận
2- Tổng quan về
sự hình thành và tổ chức của hệ thần kinh
3- Tầm quan trọng
của cảm xúc trong đời sống thường nhật
4- Những điểm
tương đồng và những khác biệt giữa đạo Phật và khoa
học thần kinh
5- Những kết
quả nghiên cứu về tác động của thiền định trên sự
vận hành của tâm não
6- Chiều hướng
nghiên cứu trong tương lai về thiền định.
. Phanxipăng
:
Phất
phơ ngọn trúc trăng tà,
Tiếng
chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt
mùng khói tỏa ngàn sương,
Nhịp
chày An Thái, mặt gương Tây hồ.
Lâu nay, hầu hết mọi người
đều đinh ninh rằng đấy là một bài ca dao do dân chúng ở
kinh thành Thăng Long - Hà Nội sáng tác và truyền khẩu tự
đời nảo đời nao. Bài lục bát ấy đã được đưa vào
các công trình sưu tập "văn chương bình dân", gồm nhiều
dị bản. Sách giáo khoa trung học lẫn giáo trình đại học
cũng chọn bài lục bát ấy làm khúc ca dao tiêu biểu để
giảng bình về cảm hứng thiên nhiên của quần chúng nhân
dân "có tính chất là những niềm vui, niềm tự hào, những
cảm xúc dạt dào trước vẻ đẹp của giang sơn đất nước
thân yêu" (Giáo trình Văn học dân gian, tập II, NXB Đại
Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1973, tr.375) và được
thể hiện "như một bài Đường thi tuyệt tác" (Giáo trình
Văn
học dân gian, tập I, phần 2, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1976,
tr. 22). ...
Ngày
xuân con én đưa thoi,
Thiều
quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non
xanh tận chân trời,
Cành lê
trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh
minh trong tiết tháng ba,
Lễ là
tảo mộ, hội là đạp thanh.
Mấy câu lục bát vừa dẫn được
xem là một trong những sáng tạo đáng kể của thi hào Nguyễn
Du khi viết Truyện Kiều. Bởi thiên tiểu thuyết Kim Vân Kiều
truyện do Thanh Tâm Tài Nhân chấp bút bằng văn xuôi chữ Hán
trước Nguyễn Du hơn trăm năm hoàn toàn chẳng có đoạn trên.
Thanh Tâm chỉ phác gọn lỏn: "May sao một ngày trong tiết Thanh
minh, con cái họ Vương cùng đi tảo mộ, nhân tiện xem hội
đạp thanh." (Bản dịch Việt ngữ của Tô Nam Nguyễn Đình
Diệm được ấn hành bởi Phủ Quốc vụ khanh đặc trách
văn hoá, Sài Gòn, 1971). Vậy mà Tố Như ngẫu hứng triển
khai thành trường đoạn tả cảnh với bao chi tiết sinh động,
nên được đông đảo dân Việt yêu văn chương lấy làm thích
thú và thuộc nằm lòng.
Phải chăng vì quá thuộc câu
43 trong áng Nôm kiệt tác kia khiến bấy lâu nay hầu hết mọi
người - kể cả các nhà nghiên cứu của nhiều thế hệ -
cứ đinh ninh tiết Thanh minh luôn rơi vào tháng ba âm lịch?
Thực tế đúng thế chăng?
Nhà thơ
kiêm nhà soạn kịch Hoàng Cầm có họ tên Bùi Tằng Việt,
chào đời năm Nhâm Tuất 1922 tại Bắc Giang,
vừa tạ
thế sáng thứ năm 6-5-2010 nhằm 23 tháng 3 Canh Dần tại Hà
Nội, hưởng thọ 88 tuổi.
Bài này
như phiến trầm hương trân trọng vĩnh biệt một nghệ sĩ
tràn trề năng lực song phải gánh chịu lắm lận đận lao
đao.
--->
Hoàng
Cầm : diêu bông rụng xuống lòng sông Đuống
. Nguyễn Chính
:
Con
cháu sẽ hỏi ta về những tháng năm này
Như ta
từng hởi cha ông ta về những ngày thủa trước
Tại sao
Chu Văn An phải dâng sớ chém bảy gian thần ?
Tại sao
ba tộc nhà Ưc Trai mắc họa ?
Sự thật
?...
Sự thật
có khi không được ghi trong sử
Nhưng
lại được nhân dân chuyên chở đến muôn đời
Con cháu
sẽ hỏi ta về những tháng năm này
Như ta
từng hỏi cha ông về những ngày thủa trước...
. Lâm Thị Mỹ
Dạ :
Tôi
yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân
hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương
người rồi mới thương ta
Yêu nhau
dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền
thì lại gặp hiền
Người
ngay thì gặp người tiên độ trì
Mang theo
chuyện cổ tôi đi
Nghe trong
cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn
nắng, trắng cơn mưa
Con sông
chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha
ông với đời tôi
Như con
sông với chân trời đã xa
Chỉ còn
chuyện cổ thiết tha
Cho tôi
nhận mặt ông cha của mình
Rất công
bằng, rất thông minh
Vừa độ
lượng lại đa tình, đa mang.
. Cát Hoàng
:
Học
người Tây Nguyên hết năm cũ thay lửa mới,…
Thơ thắp
lên ngọn phù sa hát khúc bồi tụ bao đời sông Người châu
thổ yêu
sông như
người cao nguyên yêu rừng Thơ dắt hồn người về sâu cội
nguồn để
quay về
cuộc sống với cõi lòng trinh nguyên
Thơ thắp
lên ngọn lòng Cảm ơn khổ nghèo trả tôi về với nông dân
nghèo
khổ Không
cám nổi phù vinh tôi lộn kiếp về ruộng đồng Tắt lửa
bội phản
Thay lửa
thức tỉnh Thơ sám hối thơ
. Bùi Thụy
Đào Nguyên :
Ngày
ấy
Trả câu
thơ. Em đi...
Sự thật
đột ngột hiện ra trần trụi
Căn hộ
mười hai mét vuông
Bốn bức
tường ám khói,
Hôm nào,
em bảo màu mây.
Sự thật
ngày ấy mới hay
Có tổ
tò vò khuất nơi kẽ cửa
Đêm đêm
côn trùng cựa mình trăn trở,
Đợi
mùa tiết đổi thay. ...
---> Muộn
2 - Muộn
3
. Bảo Quyên
:
thu
dấu ưu phiền sau áng mây
ngỡ ngàng
chiếc lá úa trên tay
mưa rơi
lất phất mờ cuối nẻo
nghe những
phôi pha lạc tháng ngày
bãi cát
mềm in chân lữ thứ
nước
trong veo dòng mắt ngây thơ
lung linh
thấp thoáng muôn diệu vợi
vệt nắng
nhạt phai lạnh bến bờ ...
---> Như
Khói Như Sương
. Bùi Văn Bồng
:
Bến
đợi chiều hôm sóng lững lờ
Nắng
buồn như thả những sợi tơ
Neo đậu
bến quê con thuyền nhỏ
Một mình
tha thẩn bến mộng mơ
Hoàng hôn
buông tím pha màu nhớ
Gió rung
ký ức lá vàng xưa
Sóng gợn
ánh chiều lay trăn trở
Tĩnh lặng
vườn ai trái đung đưa
Người
đi buổi ấy mờ sương núi
Cánh én
vờn bay níu mây xa
Giờ đây
trong gió hồng cát bụi
Hình bóng
người xưa có nhạt nhòa ...
---> Bến đợi
- Người
bán báo - Nhớ
người tặng cây mai - Hoa
hồng
. Hoàng Hoa :
Đêm
lạnh nẻo về sao lưa thưa
Bóng
ai lạc lối phút giao thừa
Nguyệt
quế tỏa hương không gian lắng
Lộc biếc
cành non nhẹ sợi mưa
Ta vẫn
đi về lối ven sông,
Độc
hành trong những đám bụi hồng
Đường
khuya mờ ảo màn sương trắng
Lay động
cành khô cơn gió đông
---> Đêm
tha hương - Nẻo
về - Thiên
thu
. Phan bá thụy
dương
1-
ghé quán
bên đường cạn một ly
cơ hồ
tiền kiếp gợi sân si
rót thêm
chai nữa - thêm chai nữa
thì chuyện
tới lui có xá gì
tôi - tôi
chỉ là người khách ly hương
dừng
chân nghĩ lại quán ven đường
tìm nỗi
hoài tình hương thắm cũ
cùng bạn
xưa nhắp chén hồ trường
rồi mai
rồi mốt về bên ấy
còn một
chút gì để vấn vương
...
---> Bài
túy ca viết trên cố hương - Gõ
thức đêm đen - Chiều
bên Chùa Hang Phra Sirat. Maha
. Hoài
Ziang Duy :
Từ
một ngày ấy anh đi
Xa miền
đất không chốn dung thân
Không
thể sống gần tội nghiệp
Buồn
theo như chiếc lá
Đậu
ở sân
Hiên nhà
Ta đứng
lặng hồn nhen chút ấm
Đôi bờ
vai thương nhớ bao ngày ...
- đêm
nghe phố, chân người
. Khaly Chàm
:
ngày
tàn vuốt mặt đam mê
đêm như
dao nhọn... bốn bề vực sâu
cội nguồn
thao thức về đâu
hú vang
tiếng gọi linh cầu vỡ tan
hôn trầm
mộng mị địa đàng
ta như
sợi khói ngỡ ngàng phù vân
xin em
giây phút thật gần
dường
như chợt biết vẫn cần có nhau
- dường
như ta chợt biết - ngẫu
nhiên chợt tỉnh
. Hà Nguyên
Dũng :
Năm
một-ngàn-chín-trăm-bảy-lăm
ta thoát
được thế trường-xà-bát-quái
bèn cắm
cổ cắm đầu chạy đại
trên điêu
tàn, trong thương hải tang điền
vào tới
Sài Gòn thấy con cháu Rồng, Tiên
nửa theo
Mẹ, nửa theo Cha đoàn tụ
ta cũng
gặp lại người yêu dấu cũ...
- Niềm
riêng
. Tuyền Linh
:
Tìm
em trên sóng lênh đênh
Hỡi em
đang giữa vô minh của đời
Xót xa
cho hạt bụi rơi
Nửa đời
hương phấn bồng bềnh cơn mơ
Đường
mây sao quá mịt mờ
Ta nghe
lạnh buốt một đời phù vân
Lối duyên
rồi cũng xa dần
Thoáng
ra đã thấy nắng bên kia đồi ...
- Tìm Em
- Lắng Đọng
. Đỗ Thị
Mộng Giang :
Vườn
khuya nhòa ánh trăng tà
Bên trời
mặc niệm dáng hoa ngậm ngùi
Trầm
tư cơn mộng ngủ vùi
Lệ rơi
tri ngộ sao nguôi dặm sầu
Mây ngàn
trôi nổi về đâu
Cánh chim
phiêu bạt - canh thâu bóng mờ
Hỏi lòng:
xa lạc bến mơ
- Lặng
thầm - Một
chút thân tình
. Tạ Hùng Việt
:
chẳng
thể cầm tay suốt đời nhau được
ơi con
người long đong đi tìm kiếm thiên đường
cơn bão
chết giữa nhọc nhằn của đất
tôi lặng
lẽ miền cát bụi cô đơn
hoa Thạch
Thảo tím quanh hồ nước cũ
mùa thản
nhiên trên mảnh vỡ đời người
tôi nhặt
những u mê của sóng
xếp nỗi
mình trong thăm thẳm xanh tươi ...
[
Trở Về ]
|