. Nguyễn
Dư :
(...)
Năm tôi học lớp ba trường tiểu
học Quang Trung (Hà Nội, 1952), có một lần cả lớp viết
sai chính tả từ giặt gỵa. Sai đủ kiểu. Nhiều đứa
viết là
giặt dịa. Có đứa viết
giặt gịa.
Hai ba đứa viết
giặt giạ. Thầy bảo phải viết là
giặt
gỵa. Cả lớp chả hiểu tại sao lại viết như vậy. Ngày
sau sẽ hiểu. Hôm nay thầy dạy như vậy thì cứ biết như
vậy.
Mãi sau này mới được thấy từgiặt
gyạ (Laver ses habits, giặt quần áo) trong tự điển của
Génibrel (1898). Thấy cả vua Gyalong (Gia Long) trong báo
L'Illustration
(1857). Lật Từ điển tiếng Việt (1988) của Hoàng Phê
ra xem thì thấy viết là giặt gịa.
Từ đơn
gịa không có trong
từ điển của Hoàng Phê. Đại Nam quốc âm tự vị
của Huỳnh Tịnh Của (1895) định nghĩa gịa là đồ
đong lúa, tức là từ giạ của Hoàng Phê.
Hôm ấy có đứa hỏi vặn thầy
tại sao không viết là giặt dịa? Thầy bảo không
được vì giặt gỵa là từ kép, dê dưới (g)
phải đi với dê dưới. May cho thầy. Cả lớp không
có đứa nào biết trường hợp dê dưới đi với dê trên
(d) của giản dị để đưa ra " ăn thua " với thầy.
( ... )
. Thu Tứ :
Á Ðông gồm bốn nước
"đồng văn" là Tàu, Việt, Nhật, Hàn. Ðồng văn tức viết
cùng thứ chữ, có cùng loại hình văn hóa.
Dưới mắt người ngoài, như
người Tây phương, trước kia Việt, Nhật, Hàn đều trông
giống Tàu : nào chữ Hán, nào đạo Khổng... Nhưng chỉ trông
thế thôi, chứ thực thì không phải thế.
Ba "anh em", mỗi người khác
Tàu sâu sắc cách riêng.
Trường hợp người Việt,
một trong những phân biệt lớn nhất giữa văn hóa ta với
văn hóa Tàu là vai trò của phụ nữ trong xã hội. Gái Tàu
nổi tiếng "yểu điệu thục nữ", gái Nhật nổi tiếng ngoan
ngoãn ngang với... cơm Tàu (1), còn gái Hàn trước kia ta ít
để ý, nay mới biết lại còn ngoan hơn cả gái Nhật! Như
sẽ trình bày, gái Việt oai hơn hẳn các chị em Á Ðông đấy,
rất có thể oai nhất thế giới!
.Cát
Hoàng :
Xe lăn bánh chưa được bao
lâu, thì bạn bè liên tục nhắn tin, điện thoại hỏi đã
đi tới đâu rồi? Đúng ra là về đến đâu rồi? Thật khó
xác định khi nơi ta về là vùng thương nhớ - kỷ niệm. Bởi:
Con đường ngắn lại
Thương nhớ dài ra
Sau bao lần lổi hẹn, cuối cùng
rồi mình cũng được về lại Cà Mau. Nói thiệt tình: Cà
Mau luôn trong tim mình, nên chưa bao giờ mình xa cách đối với
Cà Mau.
Mỗi người có thể có cảm
nhận riêng về mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Cách độ 20 năm trước, khi dừng
chân trước cương thổ Lạng Sơn, được chứng kiến cảnh
cây chung cội mà nhành phân đôi (hai Nước); mây liền xanh
mà trời phân đôi, chợt liên tưởng cảnh Nguyễn Trãi tiễn
cha mình (Nguyễn Phi Khanh) mãi mãi xa rời Tổ quốc, để oặn
lòng trên đôi cương thổ.
Cũng độ đó, tôi ở trên tàu
cảm nhận đất sinh sôi qua doi bùn vươn dài ra biển được
gọi tên là Mũi Cà Mau, mà tự hào về sự khai sinh mở cõi
của bao lớp người trước.
Hôm nay, tôi thật sự về với
Đất Mũi.
Vườn chim U Minh ở phía Tây
Bắc cách Trung tâm Thành phố Cà Mau khoảng 40 cây số đường
bộ, ngang qua Khu nhà máy Khí Điện Đạm. Có vỏ lãi sẵn
đón tại Bưu điện thị trấn U Minh (Theo hẹn điện thoại
di động) đưa chúng rong ruỗi dòng nước dớn (sông Cái Tàu)
về nơi đất lành chim đậu.
Nói vườn chim nghe có vẻ nhỏ
nhoi khiêm tốn, nhưng thật ra Anh Chị Nhẫn (Chủ cơ sở Vườn
Chim U Minh) nhận khoán 100 Ha rừng tràm ăn chia 6/4 với Nhà
nước (Dân 6, Nhà nước 4) rồi kết hợp làm dịch vụ du
lịch (có cả vườn chim và vườn cây ăn trái). Rất tiếc
khi chúng tôi đến lúc nước cạn nên chưa đi xuồng vô tận
rừng sâu để tận hưởng cảnh quan thiên nhiên. Song đã được
hưởng đặc sản (Cá, rắn và rượu trái giác) và ngủ giấc
trưa ở rừng êm ả vợi dịu.
. Giới thiệu
nhạc :
. Tình khúc
Đào Nguyên (CD) : -
Thiên
Đường Mùa Xuân - Trả lại cho anh - Em không còn qua nữa bậc
thềm rêu - Hài tiên
. Nguyễn
Chính : -
Bên
dòng Đakbla ( ca sĩ : Trường
Lưu) - Năm
người đàn bà và tôi ( ca sĩ
: Kim Hương)
. Nguyễn
Văn Thơ : -
Lời
Tình cuối - Xót
xa (cs. Mai Hoài Thu )
. Ca sĩ :
Sagara Naomi / Lời Việt :Phạm Vũ Thịnh & Aline : -
Thế
giới này là của đôi mình / Sekai wa Futari no Tame ni :
.
Giới thiệu sách :
.Trịnh Nguyên
Phước : -
Đối
thoại giữa ĐỨC PHẬT và GÃ CHĂN CỪU
. Vũ Ngọc Cẩn :
Bài viết bằng tiếng Pháp của
Vũ Ngọc Cẩn , thêm tranh Thủy Mạc
.
Phạm Ngọc Lư :
Uy
nghi Hải Vân !
Cõng đá
đeo rừng vút lên muôn trượng
Bạt gió
đè mây ngất ngưởng
Nguy nga
đệ nhất hùng sơn (...)
---> Hải
Vân
. Bùi Thụy
Đào Nguyên :
Nếu
một ngày
Quỳnh
thức dậy
Thấy
mình là giọt nước trong
Trên dòng
sóng nổi
Nếu một
ngày
Quỳnh
thức dậy
Thấy
mình là hạt muối
Nằm phơi
bờ bãi lặng mênh mông
Có nghe
một người
Chèo chống
trên sông,
Thương
về biển mặn.
Có nghe
một người
Buông
tóc rối
Thả hồn
mình ra khơi
Chờ mong
ai đó
rất xa
cười.
...
---> Nhớ
Xuân Quỳnh & Lưu Quang Vũ
. Tâm Minh Ngô
Tằng Giao dịch thơ Jacques Prévert :
Ce
n'est pas moi qui chante
c'est les
fleurs que j'ai vues
ce n'est
pas moi qui ris
c'est le
vin que j'ai bu
ce n'est
pas moi qui pleure
c'est mon
amour perdu. --->
Không
phải anh hát - Paris
ban đêm
. Nguyễn Thế
Tài :
mùa
thu cuốn mây về
trên hàng
dây lá đỏ
giọt
thơ buồn gõ nhẹ về tim
chiều
thiên thu nghe tiếng gió ru mềm
căn phòng
nhỏ bập bùng tia lửa ấm (...) --->
Mùa
thu trên hàng dây lá đỏ
. Quỳnh Chi
:
Gió
hay đùa nghịch ngợm
Đón ngõ
trước cổng sau
Biết tránh
gió làm sao
Đành cấm
cung lẩn trốn
Gió bồn
chồn lo lắng
Đập cửa
kêu suốt đêm
Nghe khắc
khoải triền miên
Chập chờn
len vào mộng
Gió ơi đừng
thổi lộng
Hỡi gió
chớ rung cây
Kẻo lá
lỡ buông tay
Lìa cành
xa tổ ấm
Nghe từng
cơn gió cuốn
Se sắt thiết
tha buồn
Thương kiếp
gió cô đơn
Tìm ai người
trong mộng ---> Gió
- Mây trắng
- Nắng thu
. Trần Hạ
Tháp :
Sấm
động
Bão tâm
và tâm bão
Níu áo người
xưa che gió
Xin một
phút nguôi lòng
Đọc không
dám nhìn mặt chữ
Bái lỗi
Mắt Ức
Trai xuyên suốt đêm trường
Khí-tượng-học-ngàn-năm
Từ lâu
chẳng còn là dự báo
Rợn da gà
Thổn thức
tâm can Việt
. Nguyễn Chính
:
Em
muốn nói với anh về những hòn đảo hoang
Giữa
hun hút mênh mông lòng người biển lận
Không
có đất nên chẳng cây nào sống được
Không
cả một tiếng chim
Chỉ thấy
suốt bốn mùa bao quanh rêu đen
Và sự
lặng thinh, bàng quan đến chai lì, cuội đá
Vang lên
giữa âm u mưu toan
Là tiếng
đập thình thình bệnh hoạn
Khát khao
danh lợi, chức quyền... --->
Đảo
hoang - Cha
tôi - Mong
ước của con
. Cát Hoàng
:
Ngã
ba Đông Dương
Cũng trời
đất một vùng quê
Sao nghe
đa cảm đi - về bâng khuâng
Nghĩa
tình ba nước thật gần
Giấc
trưa eo óc đồng lân tiếng gà
Đông
Dương chung một ngã ba
Khéo chi
chia cách cho xa lòng người
Đến
vùng cao luống ngậm ngùi
Về xuôi
chạnh nhớ đến người vừa thương
KonTum,
5/2004
. Hoàng Hoa :
Anh
trát mầu xanh lên mắt em
Mầu hồng
lên má
Làm biển
sâu tội lỗi
Và mầu
nâu gây giấc ngủ êm đềm
Anh trát
mầu xanh lên mắt em
Đôi tay
run rẩy
Níu kéo
cuộc đời
Mắt đắm
đuối nhìn em vào cõi mộng
Và nụ
cười vỡ vụn trên môi --->
Chân
Dung - Người
em xóm nhỏ - Những
chiều thứ năm
. Hà Nguyên
Dũng :
Là
tai trời họa nước, đó em
động
mả mồ chi ta chọn bút nghiên
chắc
lúc thôi nôi ta bốc lộn
cây viết
lá tre ngỡ cây tên
Giá như
bốc trúng cây tên thật
nghiệp
võ ta nay đã lẫy lừng ? --->
gặp
Thanh Sương ở Cầu Chìm (Duy Xuyên)
. VHL :
bên
sông cành liễu rũ buồn
đong đưa
con gió dậy hương tóc trầm
bềnh
bồng dựa gót phù vân
lạnh
lùng mặt nước lăn tăn nếp sầu
chiều
tà âu yếm non cao
nghe như
có tiếng kinh cầu xa xa ...
---> Đường Mê
. Tuấn Trang
:
Trên
đỉnh non cao gập ghềnh sóng vỗ,
Ấn Độ
Dương nơi bão nổi năm nào,
Nhưng
hôm nay biển đêm êm ả quá,
Bao ánh
sao, biển trời hòa biển cả ! --->
Sao
trên biển lạ
Truyện
ngắn - Ký - Tạp văn - Biên khảo |
. Trần Tư
Bình :
Hiện
nay, giới trẻ thường sáng tạo nhiều kiểu viết tắt chữ
Việt _mà phần nhiều là chữ không dấu_ khi “chat” trên
mạng hoặc khi viết tin nhắn SMS ở điện thoại di động.
Đây là
một trào lưu không thể ngăn chận được và sẽ không bao
giờ dừng lại, cho dù có nhiều quan ngại là nó sẽ ảnh
hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt.
Người thích
viết tắt thì cho rằng “chat” hoặc nhắn tin là sự trao
đổi riêng tư giữa hai người, không công bố trên các phương
tiện thông tin đại chúng, nên cũng không cần theo những quy
định về cú pháp, câu chữ; do vậy nó không làm mất đi
sự trong sáng của tiếng Việt. Hơn nữa, một số loại điện
thoại không hỗ trợ dấu tiếng Việt, nên cũng không thể
gõ dấu được, vả lại nếu có đi nữa thì khi sử dụng
chúng, ta lại phải nhấn thêm một kí tự.
Để hỗ
trợ cho những ai thích viết tắt, bài này xin trình bày 2 loại
viết tắt chữ Việt:
a.
Viết tắt tự tạo.
b.
Viết tắt theo quy luật chung.
Ai kết hợp
được hai loại viết tắt này thì sẽ tiết kiệm được
thì giờ và tiền bạc khi nhắn tin hoặc chat
. Phạm Vũ Thịnh
:
Vào
một ngày mùa hè 5 năm trước, có một lãng sĩ [3]
đến võ đường Hinokiyama xin tỉ thí. Yaichiemon thường thì
không chấp nhận những thách thức kiểu này, nhưng hôm ấy,
tâm hồn đặc biệt thư thái, nên ông đã chịu đưa người
lãng sĩ ấy vào trong võ đường để đấu bằng kiếm tre.
Thanh kiếm tre của Yaichiemon nằm trong bao da thuộc màu tím,
bọc thêm lớp bông gòn.
Tất cả những gì Satomura đã
thấy thì như thế này: Yaichiemon là người tầm thước, nhưng
đứng tấn kiếm đối mặt với người lãng sĩ kia to mập
quá, trông ông thật bé nhỏ. Sau một hồi hai bên yên lặng
nhìn nhau, có vẻ người lãng sĩ dợm tấn công. Đúng lúc
ấy, Yaichiemon rút kiếm tre về, quay lưng lại. Lãng sĩ hét
lớn, chém sả xuống lưng Yaichiemon. Rồi thân thể to lớn
của lãng sĩ đổ ụp xuống sàn đánh rầm một tiếng vang
động. Không hiểu Yaichiemon đã đánh thế kiếm ra sao, chỉ
thấy ông ôm đỡ người lãng sĩ đã ngất xỉu ấy lên, nơi
màng tang anh ta đã nổi u lên một cục to bằng nắm tay.
Thời
bấy giờ ở Edo[1] có hoạ gia mang hỗn danh là "Baikei
quậy". Baikei
(Mai Khê) là tên hồi còn trẻ của Tazaki
So-un đó. Tương truyền mặt ông ấy dài đến 2 shaku (khoảng
60 cm) thì hẳn là khác thường lắm. Được cái là thân
người và tay chân đều to lớn tương ứng nên không tạo
ấn tượng quái dị gì mấy. Từ thuở niên thiếu, ông đã
có mắt nhìn dữ dội đến nỗi người ta kháo nhau là:
-"Ai thấy cũng run lên khi bị
Baikei vặn hỏi điều gì".
Ngày nay vẫn còn hình chụp
ông ấy. Trong cuốn Đại từ điển Bách khoa do nhà Heibon xuất
bản cũng có hình ấy, quả thật trông ông không có vẻ gì
là hoạ gia cả. Có nhìn cách nào đi nữa, cũng thấy đó là
khuôn mặt của một vị tướng thu đoạt thiên hạ từ trên
lưng ngựa.
Cho đến tuổi trung niên, ông
sống trong xóm nhà lá Sanya ở phường Asakusa. Chuyện truyền
tụng về Baikei thì nhiều lắm.
Khi nào ông bảo vợ: -"Kiku
à, hôm nay có hội Thư hoạ đấy" thì vợ ông là Kiku hiểu
là sẽ có chuyện gì xảy ra. Thế nào ông cũng vác thân người
máu me bê bết mà về nhà.
Ở
Kyoto, món nấu thập cẩm ngày Tết Ozoni phải nấu với
lửa từ cây thuốc
Okera (bạch truật) mới đúng
tục lệ kinh đô. Mồi lửa Okera thỉnh từ đền Gion
ở xóm Yasaka ngay trong đêm trừ tịch. Yoroku người xóm Takaoke
phường Mibu, làm nhân viên điều tra phụ giúp cảnh sát, tối
Trừ tịch đó từ đền Gion về đến nhà liền trao cho vợ
là Okane một thanh gỗ Okera có dây mồi lửa, thanh còn
lại anh kẹp vào hai ngón tay, dợm bước trở ra khỏi cửa.
Sau lưng anh, Okane nói mỉa:
-"Lại mang sang cho cô vợ goá
nhà hàng xóm đấy à?"
-"Chuyện phải làm đây, mà
ngài Hijikata cũng đã có bảo nhỏ nữa đấy. Vả lại, cô
ấy đang có tang chồng, làm sao dám chui qua cửa Tam quan của
đền thần được! Hàng xóm láng giềng với nhau, chia bớt
chút đỉnh mồi lửa Okera cho cô ấy cũng được chứ!"
Khi Yoroku bước ra trời đêm,
thì từ cửa mắt cáo của nhà bên cạnh, một bóng đen bước
nhanh ra ngoài. Khá đẫy người, nhưng cử động nhanh nhẹn
có vẻ là một võ sĩ còn trẻ. (...)
. Quỳnh Chi
:
Chắc
là có người thợ săn nào bắn vu vơ trúng phải, hay tay súng
nào nghịch ngợm đã nhắm bắn. Tôi đã bắt gặp một con
nhạn đang quằn quại đau đớn bên bờ đầm nước. Nó cất
tiếng kêu thống thiết trong đầm nước nổi đầy bèo, cánh
bên trái đẫm máu của chính nó đang trào ra, chỉ có chiếc
cánh bên phải còn tự do vùng vẫy được đang đập cánh
một cách tuyệt vọng.
Tôi rón rén
bước đến gần con chim bị thương, lấy hai tay vớt nó lên.
Hơi ấm từ cánh và toàn thân của con chim thiên di truyền
qua tôi, và con chim trĩu nặng không ngờ trên tay đã đem lại
cho cõi lòng đang u tối của tôi một niềm an ủi. Tôi bèn
nhất định phải chữa cho con nhạn này khỏe trở lại, bèn
bưng nó trên hai tay và cứ thế đem về nhà. Đoạn tôi đóng
chặt cửa lại và bắt đầu chữa vết thương cho nó, dưới
chùm đèn điện có năm bóng.
Nhưng có
lẽ nhạn là giống chim vẫn có thể nhìn thấy được trong
bóng tối, nên nó đã lấy chân đá đổ lọ cồn với thuốc
đỏ để trên mặt bồn rửa mặt, hòng ngăn cản không cho
tôi tiến hành cuộc giải phẫu. Vì vậy tôi đành phải làm
một việc hơi tàn nhẫn là lấy dây buộc hai chân chim lại,
và đè cái ức của chim cùng chiếc cánh bên phải đang vùng
vẫy của nó xuống, lại kẹp chiếc cổ dài ngoòng của nó
vào giữa hai đùi. Tôi quát:
-Nằm yên
nào !
. Phạm xuân
Hy :
Sách " Hoài Nam Tử
淮
南 子 " cũng còn gọi
là " Hoài Nam Hồng Liệt 淮
南 鸿 烈 " ,
là tên của một cuốn cổ thư của Trung Hoa, được viết
vào khỏang đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, là một
kiệt tác, được các nhà nghiên cứu cho là tổng hợp và
chỉnh lý những tư tưởng của bách gia thời Tiên Tần, đồng
thời sách cũng bảo lưu được nhiều thông tín lịch sử
giá trị thời Tần Hán.
Có người cho là sách " Hoài
Nam Tử " do Hoài Nam Vương Lưu An trứ tác, và cái chết
của Lưu An có liên can đến sách này. Điều đó có đúng
không ?
. Trần
Hạ Tháp:
Chủ quán bắt đầu
tò mò và lộ vẻ bất an. Anh ta chỉ vào một chỗ thủng trên
bao vải của tôi:
- Răng... có tóc người a thầy?
Có chi trong... không?
Tôi muốn ngã người xuống
ghế dựa để được lan man theo dòng tư tưởng riêng mình
nhưng phải mở miệng bao ra. Anh chủ quán tròn mắt ngó lom
lom:
- Cục sắt tròn với lọn
tóc... bện!
- Đồng! Không phải sắt đâu.
Đây là loại binh khí người xưa để lại. Một kỷ vật
gia truyền đã hai đời bên dòng họ ngoại nhà tôi... Cái
này gọi là quả đồng chùy tóc bện
.
. Nguyễn
Thị Chân Quỳnh :
Thuở nhỏ, tôi đọc một
cuốn truyện trẻ em kể rằng có một người cha muốn gián
tiếp khuyên các con nói tiếng Việt cho ra tiếng Việt, trong
bữa cơm đã bông đùa hỏi :"Nồi cơm hôm nay thổi bởi ai
mà trông có vẻ tốt ăn thế ?" khiến cho u già đang xới cơm
phải quay đi tủm tỉm cười. Câu chuyện này đã in sâu vào
trí óc tôi, đây là lần đầu tiên tôi ý thức được rằng
người ta vẫn có thể nói tiếng Việt cho người Việt hiểu
nhưng vẫn khiến cho người nghe "tủm tỉm cười". Từ đó,
tôi cố tránh những câu đại loại :"Làng tôi bao bọc
bởi
một
lũy tre xanh" vv. rập theo cấu trúc Tây phương (forme passive).
Tuy biết có thể mục đích là muốn "làm giầu tiếng Việt",
song tôi vẫn tránh không viết, có lẽ vì khi đi học tiếng
Pháp hay tiếng Anh các thầy gíáo, dù là người Pháp hay người
Anh, đều căn dặn tôi phải tránh lối cấu trúc này vì nó
làm cho câu văn nặng nề, chỉ nên sử dụng khi nào thật
cần thiết.
Bây giờ đọc sách báo Việt, ở
trong nước cũng như hải ngoại, đều thấy nhan nhản những
"bởi" là "bởi", chẳng thấy ai lên tiếng phản đối. Tôi
đã đi từ ngạc nhiên đến băn khoăn và cuối cùng kết luận
tại tôi đi xa nhà lâu ngày nên cách dùng chữ "bởi" kiểu
Tây phương đã được Việt hóa từ lâu mà không biết, không
ai thấy nó "nặng nề" nữa. Tóm lại chắc là tôi "lạc hậu",
khư khư giữ lấy những quan niệm đã cũ rích, không hợp
thời. Tôi đã trở nên "bảo thủ" mà không tự giác, khác
nào những người Gia-nã-đại gốc Pháp còn giữ những từ
ngữ mà người Pháp sống ở Pháp đã bỏ từ lâu. Còn nhớ
người ta kể cho tôi nghe rằng hồi đầu thế kỷ XX, trong
các vườn Bách thảo ở Gia-nã-đại thường có những tấm
biển đề "Défense d'injurier les arbres" khiến cho những người
Pháp chính cống phải ôm bụng cười vì với họ nó có nghĩa
là "Cấm không được chửi bới cây cối", trong khi nó chỉ
có nghĩa :"Cấm không được phá phách, bẻ cành, chặt cây".
. Võ Quang Yến
:
Cuối
tuần lễ 14-17 tháng năm 2009 vừa qua, nhằm vào mùa lễ Phật
Đản Vesak, vùng Paris tiếp đón long trọng Xá Lợi từ Thái
Lan gởi qua. Đến Paris ngày thứ năm 14, Xá Lợi trước tiên
được đưa về viện Huyền Vi ở Vitry, ngoại ô nam, để
chiêm bái ở đấy suốt ngày thứ sáu 15. Qua ngày thứ bảy
16, đến lượt tòa đốc lý thành phố Paris nghênh tiếp Xá
Lợi ở thị sảnh với sự giúp sức của Viện Bảo tàng
Guimet. Viện đã cho mượn một số tượng hình để trang hoàng
phòng trong một cuộc triển lãm "Từ Bodh-Gaya qua Paris, 25 thế
kỷ văn hóa Phật giáo" với những bản giải thích giản dị
cho những người ngoại đạo tò mò đến xem để tìm hiểu
Xá Lợi nhân tiện biết thêm về một đạo giáo phát xuất
từ Á châu đang mạnh dạn bành trướng qua phương Tây. Khi
tiếp nhận năm nay buỗi lễ Phật giáo, tòa đốc lý Paris,
được xem như là thành phố biểu thị tính năng động của
Phật giáo châu Âu, thực hiện một cử chỉ tượng trưng
đánh dấu sự công nhận cuộc hiện diện hài hòa những cộng
đồng Phật giáo ở Pháp, trợ lực ý chí mọi chia sẻ, trao
đổi, gặp gỡ văn hóa giữa các cộng đồng khác nhau, làm
vinh dự cho nước Pháp, xứ sở nhân quyền đã được chọn
làm đất đón tiếp Xá Lợi quí báu của đức Phật Thích
Ca. Xá Lợi được đặt giữa phòng, trong một cái tháp nhỏ
mạ vàng theo kiểu tháp ở Wat Sakhet, đứng xa hai, ba thước
không thấy rõ được. Giấy báo có đề nghị một số biểu
diễn nhạc và múa suốt ngày ở đường Lobau cạnh toà đốc
lý nhưng rút cuộc chỉ tối hôm đó, một cuộc biểu diễn
văn nghệ Á châu đã trình bày những điệu múa đặc sắc
cho một số người may mắn được Hội đồng thị xã mời.
Anh
Nguyễn Đạt Xường sinh ra ở Trà Vinh ngày 2 tháng 6 năm 1914
(ngày chính thức trong giấy tờ nhưng chưa chắc đã đúng).
Trong những buổi gặp gỡ báo chí ở trong nước sau nầy,
anh tự hào cho biết "là mồ côi cha mẹ từ thuở còn nhỏ,
anh đã trải qua một cuộc đời hết sức nhọc nhằn, chăn
trâu, ở đợ, làm thuê, nhưng vẫn luôn khát khao được học
và tìm mọi cách để đi học". Rời Trà Vinh, anh được học
bổng lên học trường trung học Petrus Ký ở Sài Gòn 7 năm
để rời trường với mảnh bằng tú tài bản xứ năm 1935.
Tuy nhà nghèo, luôn "vẫn chỉ một bộ đồ ka ki mỗi năm một
sờn, mỗi năm một ngắn, trông dị hợm" anh luôn học giỏi,
đứng đầu lớp, không sờn lòng, quyết chí học và năm nào
cũng đạt giải thưởng. Năm 1937, vào tuổi 23, tránh né quan
trường thuộc địa, chàng trẻ tuổi ham học thành công lấy
tàu thủy qua Pháp. Ở Paris, anh lần lượt ghi tên học truờng
luật rồi trường nha là những ngành quen thuộc thời ấy
của những sinh viên nguyên quán thuộc địa, sau cùng theo học
những chứng chỉ hóa học ở viện Đại học Quốc gia Nghệ
thuật và Nghề nghiệp CNAM, dành cho những người đã đi làm,
học lớp buổi tối và cuối tuần, vì bảo đã "nhận thức
được ngành hóa là chiếc thìa khóa chủ yếu của thế giới
trong tương lai" một hôm lang thang trên đại lộ Boul'Mich xóm
La Tinh. Hồi ấy, để có tiền ăn học, anh đã làm nhiều
nghề từ quét vườn, bồi bàn, qua nhân viên chạy giấy, đưa
thư, chạy vặt.
(...)
. Nguyễn Quý
Đại :
Hơn
bốn trăm năm trước vùng Bắc Mỹ là nơi mà những người
cùng khổ khắp năm Châu đến tìm vàng, hy vọng thoát khỏi
những khó khăn về kinh tế hay chạy trốn vì lý do tôn giáo.
Miền đất hứa của những người lao động nhọc nhằn, đầy
dẫy những hiểm nguy, bất công, bóc lột, kỳ thị... Họ
phải chiến đấu để bảo vệ sự sống còn và vượt qua
nhiều khó khăn để thành lập Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, một
quốc gia độc lập, dân chủ và giàu mạnh nhất thế giới.
Hàng năm Canada và Hoa Kỳ có lễ tạ ơn Thanksgiving để nhớ
lại nguồn gốc tổ tiên.
(...)
Năm 1879 Quốc Hội Canada chọn
ngày 06 tháng 11 làm Thanksgiving. Tới 1957 Canada căn cứ vào
lịch sử ấn định ngày Thứ Hai thứ nhì của tháng 10 là
ngày lễ Thanksgiving.[1] Người Mỹ nghỉ lễ vào thứ Năm cuối
của tháng 11 để họp mặt đại gia đình, quây quần trong
bữa tiệc Lễ Tạ Ơn .
Nguồn gốc lễ Tạ ơn gắn
liền với các lễ hội ngày mùa được tổ chức ở Âu Châu
từ hai ngàn năm trước. Theo tài liệu thì những người Âu
Châu di cư đầu tiên tại Bắc Mỹ được tổ chức ở Newfoundland
và nhóm Thám hiểm Frobisher năm 1578. Một lễ hội khác được
tổ chức vào ngày 4.12.1619 khi 38 người khai hoang từ giáo
khu Berkeley xuống thuyền tại Virginia và làm lễ tạ ơn. Trước
đó, cũng có một buổi tiệc Tạ ơn tổ chức bởi Francisco
Vásquez de Coronado cùng với nhóm người da đỏ Teya, ngày 23.5.1541
tại Texas ăn mừng việc họ tìm ra lương thực. Một sự kiện
tương tự xảy ra một phần tư thế kỷ sau vào ngày 8.9.1565
tại St. Augustine, Florida khi Pedro Menéndez de Avilés gặp đất
liền, ông và những người trên thuyền đã tổ chức một
bữa tiệc Tạ ơn có gà Tây nướng trộn đậu que, bí đỏ
với người bản xứ....
. Từ Vũ :
Tại
thành phố Roma - Ý đã có một buổi lễ được tổ chức
vào ngày 25 tháng 12 từ một thế kỷ trước kỷ nguyên thiên
chúa . Người dân La Mã làm lễ tôn thờ Mirthra, gốc Ba Tư,
được mang vào Roma bởi những người lê dương La Mã. Mirthra
là vị thần ánh sáng của người Ba Tư . Lễ vào ngày 25 tháng
12 là ngày điểm chí của mùa đông, sự ra đời của Mirthra
tượng trưng cho sự bất bại của mặt trời (Dies natalis solis
invicti). Trong buổi lễ người ta cúng thần bằng một con bò
rừng nhỏ.
Năm 274, hoàng đế La Mã Aurélien
tuyên bố việc tôn thờ thần Mirthra là quốc giáo và lấy
ngày 25 tháng 12 để cử hành lễ.
Lễ Noël chưa xuất hiện vào
thời kỳ đầu của đạo Thiên Chúa.
Chỉ từ vào thế kỷ thứ
II sau nhiều lần tìm tòi để có thể lấy một ngày nào đó
trong năm làm ngày ra đời của Chúa Jésus vì không tìm thấy
một dấu vết nào đề cập đến việc này trong các sách
Phúc Âm. Nhiều ngày, tháng đã được đề nghị như ngày
6 tháng Giêng, ngày 25 tháng 3, ngày 10 tháng Tư...nhưng vẫn
không dẫn đến một quyết định dứt khoát nào.
. Nguyễn Thị
Dị :
Tâm
với tay gỡ tờ lịch Tam Tông Miếu treo trên tường, nhìn
ba đứa con đang chụm đầu vào cuốn báo quảng cáo đồ chơi
mùa Noel.
Trí 14 tuổi
ít nói, Đức lên 10 nhỏ nhẹ nhưng dễ khóc còn bé Vân, gái
út mới lên 5 nói líu lo như chim hót ...
Tâm tới
gần hỏi :
- Các con
đã viết thư cho père Noel chưa ? hôm nay là 10 tháng 12 rồi
đấy!
Cả ba cùng
ngước nhìn mẹ , lắc đầu.
Tâm tìm
ba chiếc phong bì, đưa cho các con :
- Các con
vào phòng viết nhanh lên . Lát nữa ba đưa mình đi chợ, trên
đường sẽ ghé lại bưu điện gởi luôn cho papa Noël .
. Nguyễn Chính
:
Lão Hậu thức
giấc bởi tiếng đuổi nhau chí chóe của những con chuột
nhắt ở bồ thóc bên cạnh. Lão thở dài, ngán ngẩm nhớ
đến mấy lỗ thủng ở cái bồ quên không bảo vợ bịt kín
lại. Lão lấy tay đập đập vào thành giường. Lũ chuột
im bặt. Nhưng chỉ được một lúc, tiếng chí chóe lại nổi
lên. Bực quá, lão cố ngồi dậy, rút cái cọc màn, nằm xoay
đầu lại, lấy cọc màn chọc chọc vào cái bồ. Góc màn
cũ, lâu không giặt, chẳng thơm tho gì trùm lên mặt lão. Mặc
kệ. Lũ chuột còn làm lão khó chịu hơn nhiều. Gian nhà ngoài
vẫn im lặng, chắc vợ lão đang ngủ say... Lão Hậu ốm đã
lâu. Thực ra ở cái tuổi sáu mốt như lão chưa thể gọi
là già. Nhưng trông lão tiều tụy, da thịt nhăn nheo, cóc cạnh.
Từ ngày lão ốm, vợ lão bỏ ra nằm ở nhà ngoài. Mấy hôm
đầu, lão cũng bực mình, hậm hực mãi. Sau thấy mình "lực
bất tòng tâm", chả làm được gì, lão mới chịu xuôi đi.
Người đàn bà ấy kém lão
đến hai chục tuổi, có dáng người tròn lẳn, quyến rũ với
khuôn mặt đẹp lúc nào cũng đỏ dừ, vẫn còn giữ được
những nét sáng sủa, thông minh thời con gái. Ngày ấy, ở
cái thị trấn nửa thành phố, nửa thôn quê này, thị nổi
lên như một thứ của hiếm. Là con của một chủ đồn điền,
nhưng thị ít chịu ảnh hưởng của gia đình. Và tuy là "con
gái rượu", thị cũng từ chối mọi sự nuông chiều thái
quá của người thân. Ngày ấy, ở cái tuổi đôi mươi thị
còn mơ mộng, cao giá lắm. Vậy mà thị lại bị lão Hậu
chinh phục. ..
Nằm gọn trong thung lũng sông
Vàng, sau trận lụt từ trên cao nhìn xuống làng Hạ nham nhở,
loang lổ như một bức tranh vẽ dở chưa khô mực. Đông dân,
ít đất, mùa vụ lại bấp bênh vì nước lụt, nên cả làng
chả mấy nhà có bát ăn , bát để. Vậy mà các cụ xưa vẫn
để lại được cho con cháu một di sản: cái đình, với những
cột lim to tướng đen như sừng, nâng mái ngói vảy cá trĩu
nặng, sỉn mốc. Thoạt nhìn đình làng Hạ cũng hao hao như
những ngôi đình ở đâu đó, cũng long, ly quy, phượng, rồng
uốn, hổ vờn, voi gầm, ngựa hý... in đâm dấu ấn một thời
oanh liệt. Nhưng lại có điểm khác, ấy là ngay chính giữa
mái, một con rồng lớn đang hướng con mắt sáng quắc xuống
dưới như thể muốn hỏi, muốn nói điều gì.
NGÀN
NĂM
Vẫn còn đêm
ấy trăng xa
Nhưng trăng
của bóng mây. Và gió thôi
Bão bùng
em đổ sang tôi
Thành hai
trận bão mê tơi còn gì
Vẫn còn
mưa nắng thường khi
Nắng như
em tuổi dậy thì hồn nhiên
Nhưng mà
thoáng đó đã em
Đã tôi
ngoảnh lại . Đã nên ông bà
Vẫn còn
mỏng mảnh trời xa
Liệu em
còn đứng đợi ta cuối ngày
Vẫn còn
em đấy. Anh đây
Ngàn năm
trăng khuyết, trăng đầy tìm nhau.
Kim Chuông
Chắc là tác giả đã ở tuổi
trên dưới lục tuần, cái tuổi thường hay vơ vẩn nghĩ về
... ngày xưa, để da diết nhớ và hoài niệm về một thời
mới đấy mà đã vời xa. Và, cũng thật tự nhiên thôi , trong
biết bao nhiêu là kỷ niệm của những giây phút vơ vẩn ấy,
cuối cùng đọng lại cũng vẫn là hương vị ngọt ngào hay
chát đắng của tình yêu thủa nào :
. Trần Vấn
Lệ :
(...)
Bài thơ
anh Nguyễn Đăng Sửu làm cho Mạ anh trong ngày bà lâm chung
và vĩnh biệt con cháu. Lễ tang cử hành tại Huế mấy tháng
trước. Nói là bài thơ vì anh Sửu trình bày như một bài
thơ. Xét về nội dung thì đây là vạn vạn cuốn kinh điển
được rút ngắn và cô đọng. Tôi chỉ còn một việc duy
nhất: đánh máy lại thật đàng hoàng, in ra trên giấy loại
đẹp và gửi anh. Chẳng dám sửa gì cả. Tuy nhiên, nói vậy
mà không phải vậy, tôi có sửa: anh nói Mạ Về Tây Phương
Cực Lạc, tôi sửa "Mạ Về Tây Phương Cõi Phật". Cực Lạc
là gì, là Vui Lắm, Vui quá xá là Vui, Vui như ở Sòng Bạc
chăng? Không! Đạo Phật dứt khoát Vui, Buồn, dứt khoát Tham,
Sân, Si. Đạo Phật là Đạo từ Tâm và dàn trải trong cõi
Vô Thường. Cõi Phật là Cõi Nào, tôi không biết, chỉ mường
tượng: Cõi Bình Yên, không hận thù, không tranh chấp, không
so đo, không tính toán. Hễ có người Vui hẳn phải có người
Buồn. Mà Vui, Buồn gì nữa khi chúng ta đã trút bỏ kiếp
người! Tôi sửa mấy chữ Tây Phương Cực Lạc ra Tây Phương
Cõi Phật và quyết không thay đổi gì nữa, tôi đánh máy
và gửi cho anh, chịu hay không chịu, kệ anh!
Bài thơ của
Anh Sửu viết cho Mạ, đọc cho Mạ trước anh em trong nhà ngày
Mạ ra đi vĩnh viễn, tôi ứa lệ. Tôi thương anh Sửu quá
chừng, có gì để nói anh Làm-Thơ-Chưa-Hay khi anh làm Thơ xuất
phát từ tấm lòng anh nói cho Mẹ, một Kỳ Quan vượt bậc
so với "hệ thống" kỳ quan trên thế giới này?
. Khanh Phương
:
Làng ở gần bên một
nhánh lớn của sông Đáy, dân cư rất trù mật. Nếu kể đủ
mọi thôn xóm, dân số có tới gần ba ngàn người. Dân làng
lấy nghề nông làm căn bản. Phụ nữ thì canh cửi,
chăn
tằm hái dâu. Một số nam nhân sống với nghề chài lưới
trên sông nước. Ruộng đất màu mỡ. Nếu không có chiến
tranh, gia đình nào có ít sào ruộng do cha ông để lại và
chịu khó chăm lo cấy cầy thì chắc chắn là đủ ăn. Ðó
là chưa kể tới những nhà phú nông, ruộng thẳng cánh cò
bay. Tuy nhiên, giống như nhiều làng mạc khác trong vùng, cũng
có một số gia đình nông dân ít ruộng vườn, nghèo và chỉ
chuyên làm nhân công, cày thuê vác mướn cho những địa chủ.
Con sông bên làng thật nhiều cá, ngoài cá lớn còn có những
loại cá nhỏ. Nhiều nhất là cá mương, cả nhiều ngàn
con, đi từng đàn. Dân làng khi làm gà, làm vịt bên bờ sông,
chỉ cần thả những miếng da gà vịt lên mặt nước là dễ
dàng thấy cả mấy chục con cá vẫy vùng, quẫy nhảy đến
ăn mồi. Một loại cá nữa có tên là cá Dầm, giống
như cá rô nhưng ít gai ngạnh và chỉ ở sông, vắng thấy
ở ao. Khi người chài lưới được mùa, những phú ông trong
làng mua cá về, ướp muối, phơi khô để dành. Đến mùa
gặt, mùa cấy đem cho tá điền dùng món cá khô nướng, dùng
vào bữa cơm, sau những lúc làm công việc đồng áng. Người
nông dân, chỉ cần có cơm gạo đỏ cho no đủ, thêm cá khô
mặn nướng, vài quả cà muối, một nồi canh mồng tơi hay
canh rau muống nấu với cua đồng là cũng đủ thấy cuộc
đời hạnh phúc.
Riêng nói về tình yêu nam nữ,
thì làng Nhân Ái là một địa đàng. Tâm hồn người dân
ở đây rất phóng khoáng, phải nói là lãng mạn, lại dễ
tha thứ cho những lỗi lầm về tình ái. Truyền thống này
đã có hàng trăm năm, trải qua nhiều thế hệ, có thể là
từ khi làng mới được thành lập từ nhiều thế kỷ xa xưa.
Làng có nhiều điểm đặc biệt khiến cho khách phương xa
phải chú ý. Ðó là Giếng Hoan Lạc, Núi Chim Cao và
Miếu
Bà.
. Nguyễn Đặng Mừng :
Mít
là cây ăn quả gần gũi với dân Viêt tự xưa, bài thơ
vịnh trái mít nổi tiếng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã
nói lên điều đó:
Thân em như
trái mít trên cây
Da nó sần
sùi múi nó dày
Quân tử
có yêu thì đóng cọc
Xin đừng
măn mó nhựa ra tay.
Nữ sĩ vịnh
trái mít non hay mít chín cũng chẳng ai biết. Chắc là mít
chín, nhưng sao không nghe nói đến hương mít, hay là nhựa
ra tay là loại nhựa có mùi thơm hơn…mít. Thi ca thì bao giờ
chẳng mang tính ẩn dụ. Trong trường hợp này ta có quyền
nói đó là …mít non mà không sợ bà chúa thơ nôm trách cứ.
Mít non hay mít già nhựa đều trắng như nhau, còn mùi thơm
thì chưa biết…ai hơn ai. .
Văn Tiên
Sinh :
Loan
ơi. Thầy đã tới rồi kìa. Ra mở cửa dùm mẹ đi con. - Tiếng
mẹ Loan vọng từ dưới lầu.
Đang nằm
mơ màng theo tiếng nhạc, Loan bật mình ngồi dậy. Đưa tay
khẽ vén mái tóc cột lại, Loan chạy vội xuống lầu. Ngoài
sân, tiếng chó sủa vang gầm gừ hướng về phía cửa chính.
Đứng ở ngoài cửa là một người đàn ông còn trẻ. Trên
khuôn mặt sáng sủa của anh đeo cặp kính cận càng tăng thêm
vẻ trí thức. Hai tay anh đang cầm chiếc ghi đông xe đạp.
Loan mở cửa đẩy một cánh cổng tươi cười mời anh vào.
- Chào thầy.
Mời thầy vào.
- Chào em.
- Anh mỉm cười và từ từ dẫn chiếc xe đạp vào sân.
- Thầy vào
phòng khách ngồi chơi, chờ mẹ em một chút. - Loan mời anh
ngồi và đồng thời rót nước mời anh.
Anh ngồi
nhẹ nhàng vào ghế sa lon, tay anh đưa ra đón ly nước từ
tay Loan để xuống bàn. Anh khẽ kín đáo quan sát 1 vòng chung
quanh phòng. Căn phòng thật là sang trọng, toàn là những vật
dụng đắt tiền. Lúc đó có tiếng bước chân vọng tới....
.
Thơ chữ
Hán của người Nhật
. Phạm Vũ Thịnh giới thiệu :
- Thơ
Inui-juro
Thơ cổ Trung
Quốc
.
Quỳnh Chi giới thiệu :
Mộ thu
độc du Khúc giang
Hà hoa
sinh thời xuân tình sinh,
Hà diệp
khô thời thu hận thành.
Thâm tri
thân tại tình trường tại.
Trướng
vọng giang đầu giang thuỷ thanh
. LaiQuang Nam
giới thiệu:
絕句 (二)
破卻千家作一池
不栽桃李種薔薇
薔薇花落秋風起
荊棘滿庭君始知
Tuyệt cú (II)
Phá khước thiên gia tác
nhất trì
Bất tài đào lý chủng
tường vi
Tường vi hoa lạc thu phong
khởi
Kinh cức mãn đình quân
thủy tri.
Văn
học - Luận - Tư tưởng - Thời đại -Ngữ Văn |
. Thảo Đường
Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh :
Ở nước Trung Hoa, từ
thời Chu, Tần, (trước Chúa giáng sinh) có rất nhiều học
giả ra đời, mỗi nhà đều có viết sách, trình bày học
thuyết của mình, với mục đích sửa đổi chế độ, mong
đem lại hạnh phúc ấm no cho con người.
Số học giả ấy không phải
chỉ một vài người, và số tác phẩm viết ra không phải
chỉ một vài cuốn, cho nên mới gọi là Bách Gia Chư Tử,
hay gọi một cách giản dị hơn là Chư Tử.
Người xưa cũng gọi Chư Tử
là các tác phẩm của những nhà học giả ấy viết ra. Danh
từ này được thấy dùng đầu tiên trong pho sách Thất lược.
. Bùi Thụy Đào Nguyên :
Hà Thành Chính Khí
ca, tương truyền là của Ba Giai, một nhà thơ châm biếm ở
cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam. Đây một thi phẩm dài
nhằm ca ngợi sự tuẫn tiết của Tổng đốc Hoàng Diệu,
đồng thời phê phán những quan lại phản bội (bỏ chạy
hay đầu hàng), khi thành Hà Nội bị thực dân Pháp đánh
chiếm lần thứ hai (1882).
Nguyễn Thị Giang (1906-1930), tức Cô Giang, là một
nhà cách mạngngười Việt chống thực dân Pháp và là hôn
thê của Nguyễn Thái Học, Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân
Đảng tại Việt Nam.
Tương truyền, trong một ngày hội
Lim, có một công tử đang giỡ trò thô lỗ trêu ghẹo những
cô gái quê. Bất bình, một chàng trai trẻ xông tới tung quyền
cước khiến người vị công tử ngã sóng soài trên mặt đất.
Lập tức, những người theo hầu ùa tới. Thất thế, chàng
trai vội nhảy phốc lên con ngựa của mình rồi phóng đi mất
dạng...
. Trần Viết Ngạc :
Xin đừng ai hào hứng
gọi cuộc xuôi về Nam của dân tộc là "mang gươm đi mở
nước!" Nói như thế chẳng những không đúng với lịch sử
và không giải trình được những sự kiện in dấu trên con
đường Xuôi Nam".
- Thuận Hoá "trở về với
Đại Việt" (chữ của Lê Quý Đôn) như món quà sính lễ của
chàng rể Chiêm Vương Chế Mân (1306).
- Công nữ Ngọc Vạn về làm
hoàng hậu của Chey Chetta II mở đầu cho sở dinh điền cuả
người Việt ở Mô Xoài (1620) và khi trở thành Hoàng thái
hậu đã nhờ ảnh hưởng của bà mà Campuchia chấp nhận cho
chúa Nguyễn được thiết lập sở thu thuế ở Sài Gòn (Prey
Nokor).
- Nhờ sự giới thiệu của
Chúa Hiền mà Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên đã vào
khai phá vùng Mỹ Tho, Biên Hoà (1679). (...)
Việc
nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam nửa sau thế kỷ
XIX còn chứa đựng nhiều sai lạc và ngộ nhận. Có những
sai lạc do vô tình, có những ngộ nhận do thiên kiến, có
dụng tâm.
Về loại thứ nhất, có thể nêu
trường hợp "Chiếu Cần vương" của vua Hàm Nghi là một thí
dụ. Vua thì có thể ban bố nhiều văn bản khác nhau: chiếu,
dụ, sắc, chỉ... Mỗi loại có những thể thức văn bản
khác nhau. Ví dụ mở đầu một tờ chiếu bao giờ cũng
là cụm từ: Thừa thiên hưng vận, Hoàng đế chiếu viết...
hoặc Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết...(1)
Đối với dụ, mở đầu bằng hai chữ đơn giản: Dụ
viết... Thế nhưng ít ai nhận ra sự mâu thuẫn trong nhan
đề và nội dung văn bản của bản văn quan trọng này.
Trong chuyến đi điền dã để
sưu tầm tư liệu về Phù Quận công Lương văn Chánh, người
đã có công khai hoang lập ấp tỉnh Phú Yên ngày nay, chúng
tôi đã tiếp cận được tư liệu về một hậu duệ của
Ông, đó là Đội trưởng thủy quân Lương văn Thành, đã
hy sinh tại Ghềnh Bà, tấn Cù Mông vào năm 1864 và đã được
Vua Tự Đức sắc phong Hiệu trung Kỵ úy, chánh đội trưởng
tinh binh. Sắc đề ngày 27 tháng 10 năm Tự Đức thứ 17 (1864).
Toàn bộ tư liệu về Lương
văn Thành đã được người cháu cố là ông Lương Do cất
giữ cẩn thận,
. Sóng Việt
Đàm Giang :
Nói tới nhà đại thi
hào Nguyễn Du (1765-1820), người ta nghĩ ngay đến Truyện
Kiều, và nghĩ đến Truyện Kiều, chúng ta liên tưởng
đến nội dung câu chuyện với nhân vật chính là một người
đàn bà.
Ngoài Truyện Kiều, Nguyễn
Du còn để lại một số tác phẩm khác như
Thơ Quốc Âm,
Chiêu
hồn thập loại chúng sinh,
Vãn tế sống hai cô gái Trường
Lưu, Thơ thác lời trai phường nón trả lời Nguyễn
Huy Quýnh. Và thơ chữ Hán gồm Thanh Hiên thi tập, Nam
Trung tạp ngâm và Bắc Hành tạp lục.
Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du,
tác giả có viết nhiều bài nói về nhân vật nữ. Những
người nữ được nhắc đến là những người sinh sống đồng
thời với Nguyễn Du mà ông tình cờ gặp gỡ, hay những người
tác giả quen biết lúc còn trẻ, hoặc những người đàn bà
nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Bài viết này bàn về những
khuôn mặt đàn bà trong thơ Hán Nguyễn Du
. BS Lương Cần
Liêm :
Tôi định nghĩa tâm
lý học là bộ môn nghiên cứu hoạt động tâm và trí con
người.
Khi đóng khung một địa bàn
tìm hiểu, nhà nghiên cứu đối chiếu qui luật tổng quát
của bộ môn với lô gích nội thể của nó. Về hoạt động
khoa học, chúng ta gặp tính chủ quan và khách quan của hai
người trong và ngoài cuộc, cùng với hai lô gích nội bộ
của sự khách quan và sự chủ quan mà tự bộ môn tạo ra
trong một bố cảnh chánh trị, xã hội và văn hóa nhất định.
(Xem Karl Popper, The logic of Scientific Discovery, 1959 &
Thomas Samuel Kuhn, The structure of Scientific Revolutions, 1962).
Nói như vậy, con người là điều kiện, vật liệu và yếu
tố duy nhất và tiên khởi của tất cả mọi sáng chế của
cuộc sống, tạo ra quan niệm đời, kinh tế, khoa học, tôn
giáo, vật chất, của cải, xã hội, lý tưởng. Con người
tạo ra sản phẩm cụ thể và vô hình mà chính vì vậy loài
người thành tập thể sống theo các sản phẩm ấy như một
thường lệ; mỗi người tự nhận mình là một vật thể
xã hội theo qui luật của nó.
. Jacques Decoux
:
-
Amiral
Decoux ( 1884 - 1963 ) [PDF]
. Georges Nguyễn
Cao Đức :
-
Les
militaires vietnamiens en Europe , 1914-1918 [PDF]
- Tôn
Thất Thuyết , 1839 - 1913, le régent régicide [ PDF ]
.
Trịnh Đình Hỷ :
(
Bài "Tâm Não Học và Đạo Phật" đã được thuyết trình
tại Thiền Viện Thường Lạc (Vitry Sur Seine / Pháp), trong 2
buổi Pháp đàm , một bằng tiếng Pháp, một bằng tiếng Việt.
Trong số này, CVCN trình bày bản tiếng Pháp, bản tiếng Việt
sẽ lên mạng trong số tới )
. Langlet Philippe:
(Sách
bằng tiếng Pháp của Langlet Philippe, Giáo sư Đại Học Paris
7 , cựu Giáo sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn)
Le Bouddhisme
des Vietnamiens n’a pas suscité assez d’attention : il a souvent paru
seulement un des aspects régionaux de la civilisation chinoise, plus ou
moins altéré par les anciens cultes et par des influences venues du Sud,
et de toute façon sans intérêt majeur pour ceux qui cherchent le plus
souvent une perception globale et une pure doctrine dans les livres. La
pauvreté générale, aggravée par le régime colonial et les guerres
contemporaines y a été pour beaucoup, laissant la modernisation mentale
et l’entretien des pagodes insuffisants. Construites en matériaux légers
à renouveler de temps en temps, fondues dans le paysage, peuplées d’une
iconographie souvent foisonnante et apparemment stéréotypée, toujours
lieux de cultes, elles ont moins attiré les archéologues français disposant
des moyens d’agir, que les ruines et statues cham et khmer en blocs de
grès, souvent libérées par abandon .
Pourtant voilà
presque un siècle, depuis les années 1920, que le Bouddhisme vietnamien
a connu une belle renaissance, parallèlement à l’essor de la pensée
positiviste moderne. Cette coexistence a été favorisée par ses caractères
anciens. Pour mieux comprendre la nouvelle civilisation du Việt Nam,
il importe donc d’y observer les rapports entre la religion et la sagesse
dans l’héritage culturel . (...)
[
Trở Về ]
|