Số
36-2 / Những bài mới đưa lên sau ngày
24 - 08 - 2009
|
. Nguyễn
Phú Yên : - Chị
ơi ( Nguyễn Phú Yên ) -
Tâm
tình gởi quê hương ( ca sĩ
: Ái Xuân)
. Lê Khắc
Thanh Hoài : - Tình
Xanh ( ca sĩ : Lê Dung )
- Tình
Xanh ( ca sĩ : Như Mai )
. Nguyễn
Văn Thơ : - Tình
thu - Giọt
lệ tình xa (cs. Quỳnh Lan-Quang
Minh)
. Nguyễn
Chính : - Bài
ca Hoàng Sa-Trường Sa (song ca)
- Bên
dòng Đakbla ( ca sĩ : Trường Lưu)
. Phạm Ngọc
Lân : - Ngồi
Đếm Những Chiếc Lá Phong Không Bao Giờ Chết
. Quỳnh Chi
:
Chương
Đài dạ tứ
Thanh sắt
oán dao dạ
Nhiễu
huyền phong vũ ai
Cô đăng
văn Sở giác
Tàn nguyệt
hạ Chương Đài
Phương
thảo dĩ vân mộ
Cố nhân
thù vị lai
Hương
thư bất khả kí
Thu nhạn
hựu nam hồi
Vi
Trang
|
|
- Chương
Đài dạ tứ (Vi Trang) - Thu
nhật hồ thượng (Tiết Oánh) - Đàn
cầm (Bạch Cư Dị ) - Dao
sắt oán (Ôn Đình Quân) - Đối
cầm tửu (Bạch Cư Dị )
. Bùi Thụy
Đào Nguyên :
Đọc
truyện Liêu trai ngẫm chuyện đời
Ai ma?
ai quỷ? hỡi con người?
Ai mưu
danh lợi bằng gian trá?
Nhơn nghĩa
vì đâu, dở khóc cười?
-> Cảm
đề Liêu trai
. Yên Sơn :
Hơn
ba mươi năm lưu đày biệt xứ
Ở những
ngày tàn cuộc chiến điêu linh
Cũng bấy
nhiêu năm xót đời lữ thứ
Tiếng
gọi trường xưa rộn rã ân tình
- Về
thăm trường cũ
. Trần Hạ
Tháp :
Mẹ
không biết thơ và chữ viết
Nhưng
câu hò rồi sẽ vượt trăm năm
Con đắc
ý dăm ba bài hạo khí
Chưa vượt
mình đâu dám bốc lời ngâm
-> Mẹ
và thơ -
Quạ
đen và cổ tích
. Tuyền Linh
:
ta
gặp em giữa mây bay
ta gặp
em tận cuối ngày nắng xa
dù tình
chẳng thể phôi pha
cũng xin
chờ đến Ta bà hẹn trao
-> Bên
Trời Mơ Xa
. Hoàng Hoa :
Ta
gục mặt bên dốc sầu độc ẩm
Rượu
hoàng hoa vơi nửa chén đêm xuân
Quán bên
đường gió buốt lá trong sân
Đèn hiu
hắt chập chờn như điên loạn
->
Dốc
sầu
. Thảo Nguyên
:
Tháng
Bảy về đây! Tháng Bảy rồi !
Tao phùng
Ngưu Chức một đêm thôi !
Cầu Ô
thấy đó chìm đâu mất
Còn lại
mưa và nước mắt rơi ?
Tháng Bảy
êm ru tiếng nguyện cầu
Những
người thiên cổ đã về đâu ?
Còn trong
lòng đất trong tù ngục
Hay thảnh
thơi cùng với lá thu ?
-> Tháng
Bảy / Thanh Thanh (dịch qua
Anh ngữ) : - The
Lunar Seventh Month
. Nguyễn Chính
:
Từ
mái trường này chúng em bay xa
Đứa
làm quan không cậy quyền hống hách
Đứa
làm nông hiền lành, chất phác
Đứa
làm thơ biết tha thiết yêu người
Đứa
phận nghèo lam lũ, nổi trôi
Vẫn biết
giữ một đời lương thiện
. Nguyễn Nam
Trân ( biên dịch ) :
Đây là phần thứ 2
trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền)
do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm
2001 tại Tôkyô. Người biên dịch tuy khá trung thành với nguyên
tác nhưng đã mạn phép tham khảo rộng rãi để giải thích
những sự kiện lịch sử, tôn giáo hay tập tục Nhật Bản
có thể xa lạ với những độc giả không sử dụng Nhật
ngữ trong đời sống hằng ngày.
Phần thứ nhất của cuốn
sách này đã được biên dịch với nhan đề "Lịch sử Thiền
Tông Trung Quốc" và đã được đưa lên mạng.
. Trần Viết
Ngạc :
Mục đích của bài
viết là xác định một thời gian hình thành vùng đất mà
ngày nay ta gọi là tỉnh Phú Yên.
Những niên đại mà chúng ta
có thể xem là những mốc thời gian liên quan đến vùng đất
này là các năm 1471, 1597, 1611. Các sự kiện xảy ra trong các
năm ấy có liên quan đến lịch sử đất Phú Yên ngày nay
là gì? Và ta nên chọn sự kiện nào để xác định rằng
từ đấy phần đất này đã hình thành như là một bộ phận
của lãnh thổ đất nước Việt với làng mạc được thiết
lập, nhân dân Việt làm ăn sinh sống dưới một chính quyền
của nước Việt.
A. Sự kiện xảy ra năm
1471: Đó là cuộc chinh phạt nước Champa của vua Lê Thánh
Tông khi được cấp báo quân Champa xâm phạm Hóa châu vào
năm 1470. Nhà vua đã tiến quân đến Thạch Bi Sơn và sau đó
đã sáp nhập phần đất phía Bắc Thạch Bi Sơn của Champa
vào nước Việt và lập thừa tuyên thứ 13, thừa tuyên Quảng
Nam.
Theo thiển ý, ta không nên chọn
mốc thời gian này làm mốc hình thành vùng đất mà ngày nay
là tỉnh Phú Yên vì nhiều lẽ:
. Nguyễn Quý
Đại :
Những
thế kỷ trước con người phải đương đầu với thời tiết,
thiên tai và các bệnh như: dịch tả, dịch hạch, ho lao, thương
hàn, đậu mùa...Vì sinh tồn, con người đã khắc phục và
vượt qua. Sự thành đạt nầy do việc nghiên cứu và phát
minh của những nhà bác học trên thế giới. Cuối thế kỷ
18 và đầu thế kỷ thứ 19, người Đức đã đóng góp lớn
lao cho thế giới về khoa học, kỹ thuật, văn học, thi ca,
triết học và âm nhạc .
Dân tộc Đức thông minh, sáng
tạo, năng động, cầu tiến. Người lao động chân tay
cũng như trí thức đều làm việc đúng giờ, tôn trọng ý
kiến xây dựng trong nghề nghiệp, sống có nề nếp, trật
tự, kỷ luật. Người tài được giữ chức vụ cao đúng
khả năng với công việc phát triển khoa học, kỹ thuật và
kinh tế, họ không bị chi phối bởi các đảng phái chính
trị. Thế kỷ thứ 18 các nước Âu Châu phát triển về công
nghiệp mạnh, nước Đức còn thua xa Anh Quốc, vì sự cạnh
tranh về phẩm chất hàng hóa nên năm 1887, chính quyền
Anh ban hành luật "Merchandise Marks Acts" bắt buộc hàng nhập
cảng từ Đức phải mang nhãn hiệu "Made in Germany". Hàng sản
xuất với nhãn hiệu từ Đức lúc đầu chưa được ưa chuộng
mấy về phẩm chất, nhưng nhờ sự cải tiến, phát triển
không ngừng, nên sau đó hàng sản xuất ra thị trường càng
ngày càng có phẩm chất tốt, bền, đẹp hơn được thế
giới ưa thích.
. Trịnh Thanh
Thủy :
Nếu
bạn là một người lạ lần đầu bước vào một Chat Room,
bạn có thể rất ngạc nhiên như bước vào một thế giới
ảo riêng biệt với những ngôn từ rất đặc biệt, rất
riêng. Tò mò hơn, nếu bạn vui chân ghé vào một trang Web hay
một blog cá nhân của các Teen thế hệ 9X (thế hệ sinh vào
thập niên 1990) hay 8X(thế hệ sinh ra trong khoảng 1980-1989),
bạn còn thấy lạc lõng hơn vì không hiểu thứ ngôn ngữ
mà các bạn trẻ đang trao đổi với nhau, có khi còn là những
mật ngữ, toàn những dấu hiệu.
Với sự
tiến triển nhanh chóng của thế giới mạng, sau Chat Room là
Instant Messengers (IM), rồi tới Blog và Text Messages, có một
thứ ngôn ngữ ra đời đó là Ngôn Ngữ Chat, Ngôn Ngữ SMS,
Chat Ngữ, Ngôn Ngữ @, Tiếng Lóng Online, hay Tiếng Lóng Trên
Mạng.
Chúng ta có
thể tạm gọi chúng là Chat Ngữ cho gọn. Chúng bắt nguồn
từ những tin nhắn hay các mẩu đối thoại, mục đích để
tiết kiệm ký tự như một thể tốc ký. Các bạn trẻ dùng
chúng riết rồi quen tay, lâu dần biến thành một thứ ngôn
ngữ thường nhật của cư dân mạng.
. Trần Xuân An :
Khi
viết về thơ Inrasara
(1), tôi không
thể không nhắc lại một chút kỉ niệm thơ ca:
"Từ những
năm còn học trung học, tôi đã đọc thấy ở cuốn sách "Những
hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại"
của Huy Trâm một
bài thơ có tên là "Tháp nắng" (2).
Đó là một trong số không nhiều bài thơ được Huy Trâm tuyển
chọn và ca ngợi. Rất tiếc là tôi không còn nhớ tên của
thi sĩ tác giả. Nhưng từ đó, mỗi lần trông thấy tháp Chăm
ven đường quốc lộ hay nhìn thấy bất kì tấm ảnh tháp
Chăm nào, hai chữ "Tháp nắng" đều vang lên trong tôi
như vọng âm từ bài thơ ấy. Vì thế, phải nói là tôi xúc
động như thể gặp lại một người thương mến cũ, khi đọc
thấy tập thơ "Tháp nắng" của Inrasara. Thật ra, hai
chữ "Tháp nắng" ấy không phải là một cụm từ độc
sáng về mặt cấu tạo từ hay nội dung hàm chứa trong đó,
đến nỗi phải chua là chữ của ai...", "Bài thơ của tác
giả nào đó trong
"Những dòng châu ngọc của thi ca hiện
đại" có ngợi ca không, ở mức độ nào, tôi không nhớ
rõ. Không ai nhắc lại, ngâm lại, hát lên thành ca khúc nên
không ai còn nhớ".
Trong bài viết, đó là một
chi tiết không quan trọng, có thể lược bỏ đi, nhưng là
một kỉ niệm sách báo đáng yêu trong đời.
Trong
một lần gặp nhau cách đây mấy năm, khi Trần Hoài Anh còn
lặn lội vào thành phố Sài Gòn - Gia Định cũ này để tìm
kiếm tài liệu, một nơi vốn là đất khởi xuất hàng vạn
cuốn sách, hàng trăm tờ báo, tạp chí (1)
của 21 năm chia cắt đất nước (1954-1975), bấy giờ đang
rất cần thiết cho luận văn tiến sĩ của anh, tôi đã cảm
thấy anh đang làm một công việc khá dũng cảm với đề tài
hơi quá to tát.
Một lần nữa, cách đây chỉ
hơn một tuần, tôi lại được anh tìm đến nhà tặng sách.
Trân trọng và cảm động cầm cuốn sách vừa mới xuất xưởng,
in nguyên vẹn luận văn tiến sĩ, Trần Hoài Anh đã bảo vệ
thành công trong cách đây mấy tháng tại Hà Nội, tôi chúc
mừng anh nhưng cũng không giấu được một thoáng âu lo cho
anh, khi anh vẫn còn phải đặt mình trước những thách đố.
Mừng Trần Hoài Anh đã làm được đề tài thuộc loại dài
rộng ấy, và đã trích đăng trên báo chí, lại xuất bản
thành sách hẳn hoi. Lo Trần Hoài Anh sau khi vượt qua những
thách đố trong quá trình bảo vệ luận văn, lại phải đối
đầu với các tiếng nói đương sự ở trong nước cũng
như ở hải ngoại.
. Vương Sinh
:
Dân tộc Việt Nam là
một dân tộc cổ, có thể đã xuất hiện rất sớm (theo truyền
thuyết, vua Kinh Dương Vương trị vì từ năm 2879 trước TL,
như vậy đã có dân sinh sống trước thời gian này). Việt
Nam là một nước thống nhất, mặc dù có những cuộc nội
chiến chia cắt đất nước thành những vùng tranh chấp (nhưng
người Việt Nam không hề coi những vùng phân chia tranh chấp
này là những "nước" riêng biệt), như thời nhà Ngô (939-965)
chuyển sang đời nhà Đinh (968-980) có loạn 12 sứ quân, chia
nước thành 12 vùng tranh chấp (945-967), thời Trịnh Mạc phân
tranh (hay Nam Bắc Triều - 1527-1592) các vùng tranh chấp thay
đổi. Năm 1627 họ Trịnh và họ Nguyễn phân tranh, chia ra Đàng
Trong và Đàng Ngoài (lấy sông Gianh làm ranh giới) và sau chót
thời chiến tranh Nam Bắc (1954-1975) lấy sông Bến Hải làm
ranh giới.
Nước Việt Nam tuy có nhiều
sắc dân sinh sống (54 sắc dân), nhưng dân tộc Việt (người
Kinh) chiếm đa số (87%), 53 sắc dân còn lại chỉ là dân tộc
thiểu số (13%).
. Bùi Thụy
Đào Nguyên : .
Năm 1771, ba anh em Tây
Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, nổi lên
chống chúa Nguyễn. Sau khi hai chúa Nguyễn bị giết năm 1777,
chúa mới là Nguyễn Ánh cũng bị Tây Sơn đánh thua nhiều
lần. Tuy nhiên, vị chúa này vẫn cố tập hợp lại lực lượng
ở Gia Định để khôi phục.
Tháng 2 năm Quý Mão (1783), Nguyễn
Nhạc sai hai em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ mang quân vào
Nam. Tướng nguyễn là Châu Văn Tiếp dùng hỏa công chống
lại nhưng bị trở gió nên thua trận. Chúa Nguyễn Ánh phải
chạy xuống Ba Giồng (Định Tường), còn Châu Văn Tiếp phải
men theo đường núi qua Cao Miên rồi qua Xiêm cầu viện.
Nước Xiêm lúc bấy giờ ở
dưới triều vua Chất Tri đương lúc thịnh vượng và đang
nuôi tham vọng chiếm lấy Cao Miên và Gia Định để mở rộng
bờ cõi. Khi nghe Châu Văn Tiếp - một bề tôi thân tín của
chúa Nguyễn - đến cầu cứu, vua Xiêm liền đồng ý.
Đặng
Thị Nhu, sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở Phú Khê,
huyện Yên Thế (Bắc Giang). Sớm mồ côi mẹ, bà ở với cha,
là một thầy mo ở làng. Lúc nhỏ, bà được học chữ Nho
và học nghề của cha.
Theo Nguyễn Văn Kiệm, vì Đặng
Thị Nhu có nhan sắc nên bị một nhà giàu ép buộc làm vợ.
Bất mãn, bà lấy Đề Thám và công khai chống lại bọn cường
quyền.
Trong một bài viết, Thái Gia
Thư (trên trang website Bình Dương) đã kể cuộc tình
duyên đó như sau: Một buổi chiều nọ, khi đi đến làng Vạn
Vân lánh nạn, Đề Thám bỗng gặp một cô gái xinh đẹp;
và ông đã nói dối với cô rằng, ông là người đi buôn,
bị kẻ cướp lấy hết vốn liếng. Sẵn lòng thương người,
cô gái đưa khách về nhà gặp cha. Ở đây, bất ngờ Đề
Thám gặp Thông Luận, là một cộng sự của mình. Thông Luận
lại là con nuôi của cha cô gái.
. Phanxipăng
:
Hôm
ấy là một buổi sáng
mưa hồng hay nắng thuỷ tinh,
chẳng rõ. Chỉ nhớ rằng năm 1992, sau chuyến thăm Canada trở
về, Trịnh Công Sơn gọi điện nhắn tôi:
- Ghé nhà mình uống rượu,
nói chuyện chơi. Có mấy món quà nhỏ để dành cho Phanxipăng
đây.
Lần lữa thế nào, đầu năm
1993 tôi mới ghé thăm anh. "Mấy món quà nhỏ" vẫn còn. Một
chai rượu nhỏ. Một tấm ảnh nhỏ chụp anh giữa rừng tuyết
Bắc Mỹ. Thêm một ca khúc mới toanh của anh:
Xin trả nợ
người. Anh gảy guitar và hát, giọng hơi khàn khàn mà lại
thiết tha gợi cảm:
... Bao nhiêu năm em nợ ngọt
ngào
Trả nợ một đời không
hết tình sâu
Bao nhiêu năm em nợ bạc
đầu
Trả nợ một đời chưa
hết tình đâu ...
. Chân-Quê
(tùy bút):
Lần
nào cũng thế. Từ Los Angeles đến Kentucky , chúng tôi
phải chuyển máy bay ở thành-phố Chicago . Đây có thể
nói là phi-trường rộng lớn nhất nước Mỹ. Các bà,
các cô nào chưa kinh-nghiệm đi xa, mang giầy cao gót là chỉ
có nước cởi giầy chạy chân trần từ cổng "gate" này qua
cổng kia mới kịp chuyến bay.
Tôi thấy ai ai cũng khó chịu,
bực mình khi phải di chuyển bằng máy bay, nhất là ở phi-trường
LAX. Từ việc xếp hàng hơn hai tiếng đồng hồ
mới đến lượt mình làm thủ-tục "Check-in" để lấy vé
" Boarding Pass ". Tất cả hành-khách phải làm việc với
máy "Computer". Các hãng hàng-không cắt giảm hầu hết nhân-viên
phục-vụ. Ai không biết tiếng Anh và không người hướng-dẫn
thì coi như "Lúa!"... Trễ chuyến bay là thường.
. Nguyễn Xuân
Vinh giới thiệu :
Với bộ "Bách-Khoa
Từ-Điển Địa-Danh Việt-Nam"
của hai đồng tác giả
Hà Mai-Phương và Lưu-Chu Thanh-Tảo mà tôi đề cập ở đây
thì vấn đề phổ biến công trình biên soạn này lại hoàn
toàn khác, vì tác phẩm thật là vĩ đại, gồm có 40 cuốn
sách và mỗi cuốn dầy vào khoảng 250 trang. Loại sách này
được dùng cho các thư viện, để ở ngăn dành cho những
sách tra cứu, cho những người muốn tìm hiểu thêm những
gì liên hệ tới một địa danh ở Việt Nam, có thể là một
chứng tích lịch sử, một nhân vật nổi tiếng trong vùng,
hay sự mở mang kinh tế qua các triều đại. Tùy theo từng
người, sự tra cứu cuốn từ điển này là do nhu cầu muốn
hiểu biết của mình về một địa danh nào đó.
. Võ Kỳ Điền
:
Bạn
tôi rất thích cây cỏ, tối ngày chăm sóc khu vườn sau nhà.
Chúng tôi định cư ở thành phố Montréal và anh là người
Việt đầu tiên mở tiệm hiệu Bonsai ở thành phố nầy. Bonsai
có thể mua ở các nhà sản xuất bên Mỹ và cũng có tự sản
xuất, tôi cùng anh thường vào các trại bán hoa kiểng lớn,
lục lọi các cây thông, cây tùng hư, cong vẹo, cằn cỗi,
có khi là những cây gần chết vứt bỏ ở thùng rác... mua
rẻ đem về cắt bớt cành dư thừa, dùng dây đồng uốn éo
cho có hình dáng đẹp, rồi nuôi dưỡng một thời gian cho
thành bonsai... rồi đem bày bán. Cây làm bonsai thường là các
loại cây xứ lạnh lá nhỏ và giỏi chịu đựng thời tiết
khắc nghiệt...
Một hôm anh ghé nhà chơi và
trong câu chuyện bàn về cây cỏ, anh nói trong một bài của
tôi có một chỗ sai và anh cho biết hoa pivoine (peony) không
phải hoa mẫu đơn mà là thuợc dược. Tôi hỏi anh căn cứ
vào đâu mà nói vậy vì hầu hết các tự điển đều ghi
pivoine là mẫu đơn, còn thược dược là dahlia. (riêng tự
điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ thì cho là mẫu đơn,
hoa trắng thật thơm, có nhiều tai, cuống mập như ống, đài
5 chia nhọn, lá láng mọc đối và chùm ba, cây nhỏ trồng
làm hàng rào cao tới 2 m, tên là Gardenia Lucida (thực ra người
Nam gọi gardenia tới ba tên, mẫu đơn, dành dành, bông lài
trâu. Gardénia gọi là hoa dành dành là đúng nhất. Ca dao có
câu: Con vợ khôn lấy thằng chồng dại, như bông hoa lài
cắm bãi cứt trâu .
Nhớ đừng lầm với hoa lài (jasmine)
ướp trà, hoa trắng nhỏ thơm lừng, người Ấn Độ thường
dùng xỏ xâu đeo cổ.
. Hồ Đắc
Duy :
Trong
sách Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) trang 256 ghi ở Thừa
Thiên có một giống lúa:"Lúa câu thân ngắn, bông nhỏ,
gạo rất đỏ, ưa ruộng cao, từ lúc cấy đến lúc
chín chỉ 40 ngày, cơm rắn".
Vậy hiện nay hạt giống lúa
câu có còn hay không? Đó là một điều bí ẫn mà
những người Huế , những nhà nông học, những nhà
nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Thế Giới
(IRRI) quan tâm
Gần cuối năm 2009 sẽ có một
festival Lúa Gạo Việt Nam được tổ chức từ ngày 26
đến 30 tháng 11 tại thị xã Vị Thanh tỉnh Hậu Giang.
Mục đích của festival là xây dựng thương hiệu Lúa Gạo
Việt Nam và tôn vinh nền văn minh lúa nước.
Nhân dịp này chúng tôi muốn
nói đến một giống lúa đặc biệt có ở vùng Thừa
Thiên Huế.
Trong bộ sách Đại Nam Nhất
Thống Chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, quyển 2
phần Phủ Thừa Thiên trong đoạn viết về Thổ Sản-Loại
Cốc có đề cập đến một giống lúa, nó có tên
gọi là lúa Câu, một giống lúa mà thời gian từ khi
gieo cấy đến khi gặt hái là cực kỳ ngắn chỉ trong
40 ngày.
Cổ nhân nói: Ngũ cốc là sinh
mệnh của muôn dân, vật quí báu quan trọng của quốc
gia.
Xã Tắc còn có nghĩa là quốc
gia, Xã là đất chỉ thần đất, Tắc là lúa chỉ thần
lúa, trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa
như sau:
Thuở xưa dựng nước tất quí
trọng nhân dân. Dân cần có đất ở nên lập Xã để
tế thần Hậu Thổ; dân cần có lúa ăn nên lập Tắc
để tế Thần Nông. Mất nước thì mất Xã Tắc, nên
xã tắc cũng có nghĩa là quốc gia.
Lúc tôi còn bé, mỗi khi ăn
cơm xong thấy trong bát còn sót lại mấy hột cơm, mẹ
tôi thường nói với anh em chúng tôi: "Hột gạo là hột
ngọc trời cho, các con phải ăn cho hết không để chừa
lại".
Số
36-1 / Những bài đưa lên ngày
24 - 08 - 2009
|
. Nguyễn
Dư :
Gần
đây, ngoài Hà Nội, trong Sài Gòn, nổi lên phong trào " tắm
tiên ". Chiều chiều mấy ông rủ nhau ra bãi sông bơi lội
bì bõm. Trần truồng thoải mái. Dư luận lập tức vào cuộc,
xì xào phê bình. Nào là mất thuần phong mĩ tục, nào là gây
ảnh hưởng xấu lên tuổi trẻ. Phe ủng hộ tắm tiên cãi
lại : Thiếu gì các bà, các cô tắm tiên. Có nghe ai phê bình,
phản đối gì đâu ? Không ai phê bình, phản đối các bà,
các cô là... rất đúng. Không cần phải có óc thẩm mĩ cũng
thấy được rằng các bà, các cô có thừa tiêu chuẩn mĩ
thuật để tắm tiên. Chẳng lẽ các ông cầm bút lại phê
bình, phản đối cả... cái hay, cái đẹp à ? Còn các ông
tắm tiên thì... chán chết, trông ngứa cả mắt. Bị phê bình
là đáng đời. Khoan khoan. Bình tĩnh một chút. Không nên cực
đoan. Chuyện các ông tắm tiên thì nên để các bà, các cô
phát biểu ý kiến. Như vậy mới trung thực.
Trong khi chờ đợi, lộc trời
cho ta cứ hưởng.
Công chúa Tiên Dung là người
đầu tiên khởi xướng cái thú tắm tiên tại nước ta. Truyện
rằng : ...
. Thu Tứ :
Phở dĩ nhiên đã đi
vào văn xuôi lâu rồi. Hóa ra phở cũng đã đi vào thơ lâu
rồi, mà nay mình mới biết. Cảo thơm lần giở, rành rành:
"Trong các món ăn
quân tử
vị
Phở là quà đáng quý trên
đời ".
Món ăn của người quân tử
có "nước dùng sao nhánh mỡ" và có "khói nghi ngút đưa lên
thơm điếc mũi", nên "xơi một bát, thường khi chưa thích
miệng". Miệng chưa đủ thích, thì miệng cứ vô tư xơi thêm
bát nữa, vì thứ "quà đáng quý" lại "đại bổ, tốt bằng
mười thuốc bắc (...) bổ âm dương phế thận can tì (...)
bổ cả ngũ tạng tứ chi bát mạch"!
.Cát
Hoàng :
Đặc
trưng Bến Cát chính là cát. Khoảng thập kỷ 60 thế kỷ 20
trở về trước, con đường từ Bến Bạ (giáp sông Cửa Đại)
đến Ao Vuông (giáp sông Ba Lai) tràn ứ cát, lớp học trò
nhỏ chúng tôi đi về lúc trời trưa nắng là phải chạy cách
quãng núp vào bóng cây để tránh chân bỏng rát; còn chạy
xe đạp (rất ít) không khéo thì ngoẹo cổ xe té lăn quay là
chuyện thường.
Bến Cát
cũng lắm vườn cây cho bọn học trò con nít tha hồ leo
trèo nhẳn nha mãng cầu, mít, xoài, khế, ổi,...Nhưng khoái
nhất có lẽ là món duối; thứ trái ngòn ngọt, thơm thơm
vừa có dư vị đăng đắng, chua chua, chát chát ăn từ trưa
tới chiều còn đa đã cái miệng; cây duối thì bự chảng
ông cả, nhánh dai dẻo, leo lên cao nằm vắt võng ngắm tư
bề nhà cảnh lại càng ngon, càng sướng.
Cuối
tháng tư, đầu tháng năm âm lịch, thường xuất hiện những
cơn mưa trong nắng - nắng trong mưa, gió lùa riu riu giá lạnh
buốt lòng người đơn lẻ, cũng là lúc mặt đất đủ mềm,
lòng đất đủ ấm để thôi thúc những kim (phôi) núm mối
vươn lên đón ánh sáng mặt trời Tết Đoan Ngọ hàng năm
- Thứ ánh sáng lúc thiếu thời mẹ tôi thường bảo con ngước
mắt nhìn để cả năm không bị bịnh mắt; hoặc trồng dừa
vào ngày nầy để sau nầy trái dừa không bị trăng ăn (dừa
có nước không cái).
Gò núm mối
được hình thành từ tổ con mối thường mọc ở đất vườn
tơi xốp có độn cây cỏ mục. Những meo núm trắng mốc được
tích tụ dần nên những chùm kim núm màu nâu của đất, đến
độ tiết trời gió mưa thích hợp là vạch đất chui lên
góp mặt cho đời một hương vị thực phẩm có một không
hai, mà ai đã nếm qua một lần cả đời không thể quên được.
"Rễ đước
cắm nơm oà ôm eo biển" - Câu thơ của Huỳnh Thuý Kiều đã
thật sự ám ảnh tôi. Đến khi tình cờ gặp lại người
bạn làm bên ngành Truyền hình tâm sự: "Dù đã đi nhiều
nơi trong và ngoài nước, nhưng khi ở trên cao nhìn xuống thấy
mũi Cà Mau giống in hình vẽ trên bản đồ Tổ quốc, thì
anh rất xúc động - một cảm giác thiêng liêng thật sự".
Hai tác động nầy đã thôi thúc tôi viết về kỷ niệm vùng
cuối đất cùng trời nầy, mà vốn dĩ tôi đã hằng hoài
cảm muốn ghi lại.
. Anh Bằng -
Hoàng Nam :
Tôi
ra đời ở làng Điền Hộ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Khi lên 10 tuổi, tôi phải xa gia đình để đi học ở một
trường dòng tu Công Giáo tên là Tiểu Chủng Viện Ba Làng.
Trong các môn học thì như duyên tiền định, tôi yêu mến,
thích thú môn âm nhạc. Khi tôi nghe tiếng nhạc hay tiếng đàn,
tim tôi mê mẩn dạt dào. Điều linh tính đó đưa tôi đến
gần âm nhạc hơn khi tôi khôn lớn.
Nhạc là một phạm vi bao la, bát
ngát trong nếp nhân sinh. Trong bài viết này tôi chỉ muốn
nói về âm nhạc dân gian, mà trong đó nhạc dân gian Bắc phần
có ca trù, hay hát ả đào, và Quan họ Bắc Ninh. Tôi còn nhớ
những năm khi quê hương miền Bắc loạn lạc, toàn dân chống
thực dân Pháp, tôi tản cư về thành lánh bom đạn. Tôi có
quen hai chị em thiếu nữ người Bắc Ninh, hai cô có làn hơi
phong phú, hát ả đào, ngân giọng ca trù rất hay. Tôi đã
gần gủi với nhạc dân gian, và từ đó tìm hiểu thêm về
một góc đẹp văn hóa quê hương...
. Bùi Thụy
Đào Nguyên :
Đình làng hay đình
thần, là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể
trên cõi thiêng của thôn làng. Nhìn chung ở Nam Bộ (Việt
Nam), sau khi mỗi làng xã được hình thành và tương đối
ổn định, thì tùy theo cuộc đất, tiền bạc & công sức
đóng góp của cư dân, mà tiến hành xây dựng một ngôi đình.
Từ đó, ngôi đình tồn tại, phát triển, biến đổi qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau của cộng đồng ấy...
Thành hoàng (chữ Hán:城隍)
là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam.
Vị thần này dù có hay không có họ tên & lai lịch, dù
xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể
trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là
hộ
quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương
đó...
. Anthony Ducoutoumany:
Nous
vivions tous tranquillement dans nos confortables certitudes bien établies,
puis la crise économique est venue bouleverser tout l'ordre préexistant,
n'épargnant aucun pays au monde, chaque pays étant plus ou moins
durement affecté. La plupart des anciennes grandes puissances sont les
plus touchées, et un nouvel ordre mondial se profile pour les années
à venir. A ce point de vue, qu'en est-il de l'Asie et du Vietnam, qui
tient une place à part dans nos pensées, pour des raisons qui nous
sont particulières à chacun ? ...
. Phạm Ngọc
Lư :
Có
người bảo ta ngu
Không
thèm ăn thóc nhà Chu
Bỏ về
quê ăn cỏ
Có kẻ
khoái ta ương gàn càn rỡ
Dám chê
rượu nhà Tần
Thứ rượu
cung đình của phường hiển vinh quý tộc ...
. Quỳnh Chi
:
Thơ
ai lơ lửng giữa giòng
Không
bờ bến đợi
Thơ buồn
nhẹ trôi
Mai chìm
đáy nước bên trời
Ngàn sao
thổn thức ngậm ngùi tiếc thương ...
. Cát Hoàng
:
Sông
ngập ngừng dát lụa nắng so le
Trưa
mầu nhiệm mắt đong mật
Hăm
chín dây tầm xuân mọc nhánh
Sao
ta không mọc rễ lòng nhau? ...
. Hoàng Hoa :
Người
ở xa về thăm trường cũ
Ôm đàn
hát khúc hát năm xưa
Bạn đứa
mất đứa còn,
Thầy
Cô không gặp đủ
Nước
mắt rơi theo nhịp vỗ bàn tay
Mái trường
ơi !thương nhớ quá nơi này. ...
. Trương Ngọc
Thạch :
Hai
vợ chồng tuổi vừa sáu chục,
Mừng
khánh thọ hạnh phúc cuộc đời,
Kỷ niệm
ba mươi năm sánh đôi
Tại một
miền xa xôi thơ mộng.
Họ nhìn
trời xanh cao biển rộng,
Ôn cuộc
tình sâu đậm đã qua.
Chợt
tiên nữ thình lình hiện ra
Cho ông
bà có ba điều ước...
. Đỗ Thị
Minh Giang :
Xin
gió thoảng hương say
Vương
làn tóc mây bay
Mưa giăng
mờ phố nhỏ
Thấm
lạnh đôi bờ vai. ...
. Sóng Việt
Đàm Giang (thơ dịch) :
Một
mai tóc bạc buồn hiu
Em nghiêng
bên lửa nâng niu sách mình
Nhẩn
nha đọc rước mộng hình
Một thời
đôi mắt diễm tình quầng sâu
. Phan
Bá Thụy Dương :
ta
ngồi đây
một mình
câu tuyết
tuyết
tả tơi bay
gió lạnh
lùng
hồ ảm
đạm
buồn
bên cành trúc
nổi chìm
bóng lẻ
trước
mông lung...
Truyện
ngắn - Ký - Tạp văn - Biên khảo |
. Bùi Thụy
Đào Nguyên :
Từ lâu, ngay cả
người trong giới nghiên cứu văn học, đã cho rằng bài thơ
Lư Khê ngư bạc và Lư Khê nhàn điếu là một; thực tế Lư
Khê nhàn điếu là tên chung của 32 bài thơ Đường luật;
nằm trong tập Minh bột di ngư; và đối với Lư Khê ngư bạc,
nội dung của chúng không hề giống nhau.
Minh bột di ngư (hay Minh
Bột di ngư thi thảo), có nghĩa: "ông chài còn sót lại ở
đất Minh Bột" (1) hoặc: "con cá còn sót lại của biển Bột"
(2), là một thi phẩm bằng chữ Hán của Mạc Thiên Tứ, gồm
một bài phú hơn trăm câu và 32 bài thơ Đường luật. Tất
cả đều mượn thắng cảnh Lư Khê ở Hà tiên (Kiên Giang,
Việt Nam) để làm đề tài sáng tác.
. Phạm Xuân
Hy :
Niên hiệu Trinh Nguyên
đời Đường, có người họ Thôi tên Vĩ, vốn là con quan
cố Giám Sát Ngự Sử Thôi Hướng.Khi còn sinh tiền, Thôi Hướng
từng nổi tiếng là người giỏi làm thơ, sau chết trong lúc
tòng sự ở Nam Hải.
Thôi Vĩ cư trú ở Nam Hải,
tính tình rộng rãi khoáng đạt, truộng nghĩa khinh tài, không
chăm lo gì đến gia tài sản nghiệp.Trong vòng mấy năm
thì khánh tận, tiền bạc hết sạch sàng sanh, đành đến
cửa chùa ngủ đậu.
Một hôm vào tết Trung nguyên
ngày này dân chúng Phiên Ngung thường có tục đem thức ăn
ngon đến chùa cúng lễ, và tập trung hàng trăm thứ trò chơi
múa diễn ở Khai Nguyên Tự.
Vĩ cũng đến đó để xem.
Chàng thấy có một bà lão
ăn mày, nhân không đề phòng bị té, làm đổ vỡ một bình
rượu của một quán bán rượu, bị chủ quán vung chân
múa tay đánh đập.Mà bình rượu, thật ra, cũng chỉ đáng
giá một mân tiền mà thôi.Vĩ thấy vậy, lòng thương hại,
bèn cởi chiếc áo đang mặc trên người ra để bồi thường
thay cho bà lão.
Bà lão bỏ đi thẳng, chẳng
thèm cám ơn một lời.
. Phạm Vũ Thịnh
dịch :
Đúng
lúc Omon nói như thế, chợt có nhiều tiếng chân chộn rộn
ngoài hành lang trước phòng. Có vẻ có nhiều người bước
vào phòng bên cạnh, một phòng rộng đến 12 chiếu [1].
Toshinosuke đưa mắt ra hiệu cho Omon, tức thì cô ngã người
vào sát ngực anh. Toshinosuke ôm Omon, áp mặt vào hôn lên ngấn
cổ trắng ngần của cô gái. Omon nẩy người lên, run rẩy
toàn thân, rồi xoãi nhanh chân ra, như đá đôi bàn chân mang
tất trắng lên, đồng thời thở hắt ra.
Cánh cửa kéo ngăn hai phòng
bị kéo mở ra, nhưng Toshinosuke làm như không để ý. Anh tăng
sức vào cánh tay, ôm chặt cô Omon hơn nữa. Anh cảm thấy
như có mắt nhìn thô lỗ trừng trừng hướng về phía mình
đang diễn cảnh tình si một hồi lâu, rồi nghe tiếng cánh
cửa kéo khép lại thật mạnh.
Toshinosuke ngẩng mặt lên.
Omon cũng mở mắt ra nhìn anh. Cô vẫn còn ôm cứng anh, mặt
nóng bừng.
-"Xong rồi mà!"
Toshinosuke nói, đẩy Omon ra,
rồi đưa chén rượu cho cô rót thêm.
Shiroyama
Saburo (1927-2007) là người mở đầu thể loại tiểu thuyết
kinh tế Nhật Bản thời hiện đại (business novels), thể
loại văn học rất được ưa chuộng trong giới doanh nhân,
tư chức, và gia đình của họ, cùng với giới sinh viên học
sinh; sách bán chạy không kém loại truyện trinh thám, hình
sự, tức là gấp đôi loại văn học thuần túy. Đến nỗi
từ năm 1979, nhật báo kinh tế Nihon Keizai Shimbun đã lập hẳn
Giải thưởng văn học dành cho loại tiểu thuyết kinh tế,
và các nhà xuất bản văn học lớn nhất Nhật Bản như Shincho,
Kadogawa, Kodansha, Shueisha, Bungei Shunju cũng hăng hái xuất bản
loại tiểu thuyết này. Đặc biệt, tất cả các tác phẩm
của Shiroyama Saburo đã lập được thành tích là những
sách bán chạy nhất ở các nhà sách lớn như Trung tâm Sách
Yaesu, Tokyo,...
Lời người
dịch : Truyện thứ 21 trong Tuyển tập "Hộp Đựng Thuốc Lá
Từ Bagombo - Bagombo Snuff Box" xuất bản năm 1999, gồm 24 truyện
ngắn Kurt Vonnegut đã đăng trên nhiều tạp chí trong quá khứ,
nhiều nơi khác nhau đến chính tác giả cũng không nhớ nổi
đã đăng lúc nào và ở đâu.
Đề truyện
"2BR02B", đọc như "To Be Or Not To Be" nhắc đến vấn nạn sinh
tử "Sống hay Chết, vấn đề là ở đấy" của nhân vật
Hamlet trong kịch thơ của William Shakespeare.
. Quỳnh Chi
:
Tôi
nhận ra là ở buồng lái ở mũi tàu có tới hai ghế, một
xanh một đỏ. Ghế bên phải không có người ngồi, tôi đoán
là họ đổi tài xế ở ga này và ông tài xế còn chưa tới.
Ghế bên trái có một cô gái mảnh mai ngồi sẵn ở đó, với
mái tóc dài được buộc gọn lại sau lưng dưới vành mũ
giống như của các cô hướng dẫn du lịch trên xe buýt.
Lạ nhỉ,
xe điện mà cũng có các cô này ư ? À, có lẽ là nhân viên
đi soát vé tàu chăng. Tôi thầm nghĩ.
Lúc này
các công ty đường sắt như đường tàu Odakyu cũng có nhân
viên nữ đứng ở cửa ga, trên sân ga v.v. nên kể ra thì cũng
không có gì lạ.
Thế nhưng
chuông đã reo, tàu sắp khởi hành mà bác tài vẫn chưa thấy
về. Và rồi con tàu lướt đi.
Tôi liền
chợt nhớ đến đường tàu mới Yurikamome chạy trên vịnh
Tokyo sang Odaiba, hơi giống như đường monorail và có những
con tàu không người lái, bèn tự giải thích cho mình rằng
" hóa ra con tàu hiện đại này cũng chạy tự động được."
Nhà vua
mỉm cười mai mỉa: "Nhà ngươi ư ?! Đáng thương cho nhà ngươi
! Làm sao nhà ngươi hiểu được sự cô độc của ta .
Bất ngờ
Melos hùng hổ đáp : "Ngài không được nói thế! Nghi ngờ
lòng dạ con người là điều vô đạo nhất trên đời. Hoàng
thượng đã nghi ngờ cả đến lòng trung thành của thần dân."
"Chính chúng
bay đã dậy cho ta biết rằng nghi ngờ là một điều chính
đáng là gì! Chính chúng bay làm cho ta hiểu ra rằng chớ có
tin vào lòng người. Lòng dạ con người vốn đầy ắp những
ham muốn vì tư lợi. Không thể tin được !". Bạo chúa điềm
tĩnh khẽ lẩm bẩm, rồi thở dài: "Ta cũng mong được sống
bình an lắm chứ."
. Từ Vũ :
Tôi
xin bảo đảm với ông rằng chẳng một người nào lại có
thể nói với ông là mụ vợ của tôi đẹp, nếu có chăng
thì chỉ hoạ may là một người hoàn toàn thật sự gàn dở.
Tôi, kẻ
đã phải chịu đựng mụ ấy hết ngày này sang ngày khác,
tôi xin được thưa : thực sự mụ ta chẳng đẹp đẽ gì,
thế mà tôi đã cố hết sức để có được một cái nhìn
thoáng hơn. Một người đàn bà , không phải chỉ cần có
một khuôn mặt xinh xắn là đã đủ đâu mà cũng còn cần
để sản xuất con cái cho mình nữa chứ, những đứa con khoẻ
mạnh , cứng cỏi như trâu. Những kẻ thảm hại như chúng
tôi, lúc về già mà không có con có cái thì chỉ còn con đường
chết đói thôi nhất lại là khi trong tay mình chẳng có lấy
được một khoảnh ruộng để cầy cấy thì thật hết đường
xoay sở, lấy ai nuôi dưỡng mình ? Chính vì thế mà tôi nghĩ,
khi còn trẻ, mình phải sản xuất con cái càng nhiều bao nhiêu
càng tốt để sau này còn đường nương tựa.
Cuộc
đời của Friedrich Nietzsche là sự cô đơn và đau đớn, tác
phấm của ông qua triết lý Siêu Nhân đã có ảnh hưởng rầt
lớn trong thế kỷ thứ XX.
. Nguyễn Thị
Dị :
Mọi hành khách trên
máy bay mở giây an toàn, lục tục lấy hành lý cầm tay, nối
đuôi nhau chờ xuống máy bay .
Nhóm hành khách Việt Nam đã
được xếp ngồi ở những ghế gần cuối nhớn nhác nhìn
bác Can, một người đàn ông khoảng độ 50 tuổi, thông thạo
Pháp ngữ , nhận làm trách nhiệm hướng dẫn bà con không
biết nói tiếng Tây đi cùng chuyến bay. Bác Can hiểu ý đứng
lên nói :
- Các cô chú chờ cho hành
khách ngoại quốc xuống trước đã, để tránh lạc nhau nhất
là đám trẻ con, khi ra khỏi phi cơ tôi yêu cầu nhóm người
Việt mình phải đi sát nhau, mình cùng đến chỗ lấy hành
lý rồi cùng đi ra trình giấy nhập cảnh tại phòng kiểm
soát, nhớ đi theo tôi đấy nhé ! .
Liên sắp đặt chân ở một
đất nước gọi là quê cha của nàng, nhưng nàng chưa thông
thạo ngôn ngữ xứ này, nàng cũng chẳng có ai là họ hàng
lại thêm một đứa con còn thơ dại ...
. Sóng Việt Đàm Giang :
Ai
cập là một trong những nước hiện diện sớm nhất ở bên
bờ sông Nile ở vùng đông bắc Phi châu. Nến văn minh cổ
của Ai Cập là một trong những nền văn minh cổ xưa và sớm
nhất trong lịch sử loài người.
Từ ngàn đời người Ai cập
đã được biết là có phong tục ướp xác người chết và
chôn trong những ngôi mộ như Masbata và Kim tự tháp. Mastabas
là nguồn gốc đầu tiên của Kim tự tháp với một khối
hình tháp xây bằng đá. Trong Mastaba có ba phòng: sảnh đường,
phòng tế lễ và phòng thờ (nơi đặt tượng người chết).
Mastaba hiện còn thấy ở vùng lăng mộ vua chúa ở Memphis,
Ai cập.
Viện
Bảo Tàng Louvre, là một cung điện đồ sộ cấu trúc gồm
ba cánh: Devon (phía Nam), Sully (phía Đông), và Richelieu (phía
Bắc), chứa cỡ 35,000 tác phẩm gồm nhiều loại phân phối
vào 7 phân bộ. Mỗi phân bộ gồm nhiều phòng với những
sưu tập khác nhau. Mỗi lầu trong mỗi cánh có thể có khu
phòng triển lãm khác nhau như: Hội Họa; Nghệ Thuật Trang
Trí; Nghệ Thuật Ấn Họa; Cổ Ai Cập; Cổ Đông Phương; Điêu
Khắc; Cổ Hy Lạp, Nghệ thuật Etruscan (vùng Bắc Ý Đại Lợi
và Corsica), và Cổ La Mã. Kim Tự Tháp kính (Pyramid) nẳm ở
giữa ba cánh.
. Võ Quang Yến
:
Trên
đất Pháp, chưa bao giờ tôi thấy một sân khấu đông phụ
nữ ta mặc đồng phục khăn áo vàng, mỗi người ngồi sử
dụng một cây đàn tranh, như hôm lễ kỷ niệm 40 năm đoàn
Phuợng Ca ngày 17.01.2009 ở thính đường Nhạc học viện Antony,
miền nam Paris. Quang cảnh rực rỡ trước mắt một người
Việt tha hương như tôi trong khoảnh khắc đã đưa tôi bay
bổng
lên mấy tầng mây. Khi mấy chục nữ nhạc công đồng loạt
bắt đầu hòa tấu với những bản thu hồ, tam pháp, ngũ
điểm mai, tôi tưởng như đang trở về lại đất nước
mến yêu xa lánh hơn một nửa thế kỷ. Người thành lập
ra đoàn Phượng Ca nầy là chị Đỗ Thị Phương Oanh, sinh
năm 1945 ở Đà Lạt, tốt nghiệp trường Quốc gia Âm nhạc
và Kịch nghệ Sài Gòn năm 1962.
. Nguyễn Quý
Đại :
Thời thơ ấu Tản Đà
hấp thụ nền Nho giáo, 5 tuổi ông học Tam tự Kinh Ấu học
ngũ ngôn thi, Dương tiết,... 6 tuổi học Luận Ngữ, kinh, truyện
và chữ Quốc Ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm
thơ văn. Ông rất thích thơ văn, được người anh hết lòng
chỉ dẫn nên 14 tuổi đã thạo các lối văn chương, thi, phú.
Lúc còn học ở trường Quy thức là trường học thực nghiệm
cải cách của Pháp ở Hà Nội, ông viết bài "Âu Á nhị châu
hiện thế" được các báo ở Hong Kong đăng trong mục xã thuyết.
Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh
Sơn Tây.
Tản Đà không thành đạt trên
đường khoa bảng, thất bại trong tình yêu đã làm ảnh hưởng
suốt cuộc đời của thi nhân, đôi khi ông sống với mộng
tưởng, phẫn uất chua cay, tư tưởng ngông cuồng và yếm
thế... Về đường văn học Tản Đà là nhà thơ thuộc phái
cựu học như Phan Khôi, nhưng Phan Khôi với " Tình Già" đã
mở màn cho phong trào thơ mới lãng mạn, sáng tạo và mạnh
dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ, đó là thời điểm quốc
ngữ còn phôi thai, bắt đầu chuyển mình thay đổi nhanh chóng
phổ biến rộng rải trên báo chí bằng thơ và văn xuôi. Tản
Đà giữ một điạ vị quan trọng là nhịp cầu nối liền
giữa hai nền văn học cổ điển và hiện đại đóng góp
cho nền văn học quốc ngữ Việt Nam phát triển mạnh.
Dân tộc
Đức thông minh, sáng tạo, năng động, cầu tiến. Người
lao động chân tay cũng như trí thức đều làm việc đúng
giờ, tôn trọng ý kiến xây dựng trong nghề nghiệp, sống
có nề nếp, trật tự, kỷ luật. Người tài được giữ
chức vụ cao đúng khả năng với công việc phát triển khoa
học, kỹ thuật và kinh tế, họ không bị chi phối bởi các
đảng phái chính trị. Thế kỷ thứ 18 các nước Âu Châu
phát triển về công nghiệp mạnh, nước Đức còn thua xa Anh
Quốc, vì sự cạnh tranh về phẩm chất hàng hóa nên năm 1887,
chính quyền Anh ban hành luật “Merchandise Marks Acts“ bắt
buộc hàng nhập cảng từ Đức phải mang nhãn hiệu „Made
in Germany“. Hàng sản xuất với nhãn hiệu từ Đức lúc đầu
chưa được ưa chuộng mấy về phẩm chất, nhưng nhờ sự
cải tiến, phát triển không ngừng, nên sau đó hàng sản xuất
ra thị trường càng ngày càng có phẩm chất tốt, bền, đẹp
hơn được thế giới ưa thích. ...
. Chân-Quê
(tùy bút):
Lần
nào cũng thế. Từ Los Angeles đến Kentucky , chúng tôi
phải chuyển máy bay ở thành-phố Chicago . Đây có thể
nói là phi-trường rộng lớn nhất nước Mỹ. Các bà,
các cô nào chưa kinh-nghiệm đi xa, mang giầy cao gót là chỉ
có nước cởi giầy chạy chân trần từ cổng "gate" này qua
cổng kia mới kịp chuyến bay.
Tôi thấy ai ai cũng khó chịu,
bực mình khi phải di chuyển bằng máy bay, nhất là ở phi-trường
LAX. Từ việc xếp hàng hơn hai tiếng đồng hồ
mới đến lượt mình làm thủ-tục "Check-in" để lấy vé
" Boarding Pass ". Tất cả hành-khách phải làm việc với
máy "Computer". Các hãng hàng-không cắt giảm hầu hết nhân-viên
phục-vụ. Ai không biết tiếng Anh và không người hướng-dẫn
thì coi như "Lúa!"... Trễ chuyến bay là thường.
. Trịnh Thanh
Thủy (tùy bút):
Có
người hỏi tôi nghĩ sao về Đà Lạt sau chuyến về thăm quê
hương mới đây. Tôi không biết thu câu trả lời sao cho gọn
ngoài một nhận xét trực giác "Đà lạt thay đổi phát chóng
mặt" . Ngoài Nha Trang với số lượng du khách và kỹ nghệ
khách sạn phát triển tột bực thì Đà Lạt là thành phố
thứ nhì làm tôi sững sờ trước sự rộn ràng đổi mới
của nó.
Dưng không
tôi tự hỏi, mình đã đón nhận sự tiến hoá thành phố
thuộc địa Tây ngày xưa này bằng một tâm thức nào? Nhìn
nó bằng mắt một du khách ngoại quốc hay bằng tâm thức
xưa cũ của kẻ trở về nơi chốn đã ghi đậm ít nhiều
kỷ niệm? Theo tôi, tâm thức hoài cổ sẽ bàng bạc hiện
hữu không những ở các việt kiều như tôi mà còn ở những
người Việt trong nước trước đây đã từng ghé thăm Đà
Lạt nữa. Cái hồn Bà Huyện Thanh Quan, của "Chốn xưa xe ngựa"
của "Người đâu bây giờ" nó mang mang, chao đảo, rin rít
lòng người lắm. Tuy nhiên nỗi luyến lưu tôi, một khách
du đôi lần ghé thăm, nay trở về sẽ khác hẳn với tình
thương thắm thiết của những cư dân đã sinh ra và lớn lên
nơi này, yêu từng con dốc, quý từng góc đồi.
. Việt Hải
:
Nói
về kim cương trong tình yêu thì nhiều nhà văn, nhà thơ hay
nhạc sĩ đã bày tỏ những ý nghĩ của riêng mình trong sự
trân quý tình yêu và kim cương. Tôi xin ví dụ như qua ba câu
nói có sự liên hệ giữa hai yếu tố đó như sau:
"Viên
kim cương trong suốt như sự trinh nguyên của người con gái,
nó lấp lánh như loài hoa yêu đương rạng rỡ giữa bình minh",
Marie Louise Brossard
"Kim cương
khoe bản sắc óng ánh của nó giống như người phụ nữ phô
trương nhan sắc đáng yêu của chính mình".
Dorothy
Renée McBain
"Anh yêu
em vì em đẹp như viên kim cương khi cười và cũng vì em xinh
đẹp như những giọt nước mắt kim cương lóng lánh mỗi
khi em giận anh", Lester C. Evans
. Nguyễn Chính
:
Đoàng
!
Tiếng nổ đanh, gọn xé màn đêm,
phát ra từ khẩu súng săn của lão Đàn, va vào vách núi, dội
lại thứ âm thanh tử thần, nghe thật đáng sợ. Chắc mẩm
đã hạ được một con mồi lớn, lão Đàn vội lao nhanh về
phía bờ suối. Đến nơi, lão vô cùng hoảng hốt, đổ sụp
xuống bên người bạn săn đang rẫy rụa trong vũng máu. Trấn
tĩnh lại, lão vội cởi phăng cái áo đang mặc xé toang, tìm
mọi cách cầm máu cho bạn. Nhưng tất cả những cố gắng
của lão đều vô vọng ...
. VanTienSinh
:
Hắn
đứng trong bóng tối nhìn ra ngoài đường, đôi mắt đang
chăm chú theo dõi. Con đường vắng ngắt không một bóng người
vào lúc khuya khoắt này. Hắn đứng đã lâu nên chân hơi mỏi,
sau khi ngáp một cái đến muốn sái cả quai hàm thì hắn từ
từ ngồi thụp xuống. Cơn nghiện đã bắt đầu kéo tới
hành hạ hắn. Cả người hắn trở nên bứt rứt, tay chân
hắn bỗng run lẩy bẩy, có cảm giác như đang có con gì ngọ
nguậy trong xương vừa ngứa ngáy vừa nhột nhạt khó chịu
vô cùng. Hắn cảm thấy lạnh khi sương đêm đang rơi nhè
nhẹ, lúc này trong lòng hắn như có lửa đốt bồn chồn không
yên.
Hắn vốn là con nhà tử tế
được cho học hành đàng hoàng. Cha mẹ hắn tuy không khá
giả gì cho lắm, nhưng vẫn cố chăm lo vun bồi cho hắn thành
tài. Chỉ vì đua đòi theo đám bạn hư hỏng và cố tỏ ra
là một tay chịu chơi, hắn đã trở thành con nghiện, sau vài
lần thử cảm giác bồng bềnh với ma túy.
. Quách Giao
(sách):
Viết
về bạn mình chỉ cốt ghi lại những gì bạn nghĩ và viết.
Nhất là cách sống của bạn. Mình không có ý định viết
lời nói đầu song nỗi niềm thương nhớ không nguôi nên mình
đành trích nguyên bài bình thơ Như Sương của bạn:
Đọc
Bài Như Sương
"Đây là
một bài thơ tư tưởng trong khung cảnh của cuộc đời. Cảnh
bình minh có sương lóng lánh trong lòng hoa. Nhìn vào giọt sương
nhà thơ chợt thấy hình bóng mình. Sương và người cùng có
một cảm giác như nhau:
Lòng
hoa
đọng ngọc
lung linh
thõng tay
soi mặt
thấy mình
như sương.
Cả vũ trụ
được thu vào trong giọt sương. Bình minh cũng là vũ trụ.
Lòng thi nhân hòa cùng với cảnh bình minh. Đẹp và trong sáng,
trẻ trung. Sương đọng trong lòng hoa, cuộc đời chứa trong
bình minh.
LaiQuangNam
giới thiệu :
- Nguyễn Du :
Nhớ đâu
đó một lần trong đời lúc vào bàn rượu anh em "chén tạc
chén thù", ai đó bổng hứng đọc hai câu chữ Hán :
Sinh tiền bất tận tôn
trung tửu
Tử hậu thùy kiêu mộ thượng
bôi
mình không hiểu" mô tê"
gì , đến khi nghe người đọc giảng, mình thấy sao hay quá.
Thì ra là thơ của cụ Nguyễn Du nhà mình.
- Nguyễn
Khuyến :
Đến thời cụ Nguyễn Khuyến qua
thơ nôm của ta ,ngôn ngữ Việt đã đẹp lắm rồi, nhất
là thế hệ chúng ta đã từng làm quen thời còn trung học.
Ngôn từ trong thơ Cụ vốn là bóng bẩy có tiếng, đôi bài
ngôn từ thật hóm hỉnh, nhất là với ai từng đọc qua các
câu đối, và các giai thoại " hơi hoang " một chút của Cụ.
Giòng thơ văn chữ Hán để lại cho đời sau có trên dưới
350 bài nhưng nay chỉ có 23 bài do chính cụ tự dịch lại
thơ mình ra quốc âm (thơ nôm). Thật là kinh ngạc khi ngôn
từ thơ chữ Hán thì hoang lắm,mạnh dạn lắm để mình có
thể gởi toàn văn đầy chất cay và chất đắng đến khách
thơ . Nhưng khi tự mình dịch sang quốc âm thì lại "hiền
khô", các từ chỉ sinh thực khí nam nữ cụ né một cách tài
tình. Bài thơ dưới đây, laiquangnam dịch ra song thất lục
bát gởi cho quí bạn cùng thưởng lãm dưới đây dịch "rõ
hơn " bởi nghĩ rằng phải như thế mới hé được cái hay
của nguyên tác ra một tinh thần khác , mà ngày ấy vai vế
cụ ngày ấy không cho phép "ông già nho học" được nói thứ
ngôn ngữ ấy .
- Đặng
Dung : -
Phần
thứ I * Đặng Dung / Cảm hoài
- Cao Bá Quát
: - Cao Bá
Quát / Hữu sở tư (nỗi nhớ ) - Cao
Bá Quát / Mộng vong nữ (mộng thấy con gái đã mất )
(nhân ngày của Cha) - Laiquangnam
giới thiệu Cao
Bá Quát kẻ sĩ , người con xuất sắc của Kinh Bắc,qua
một bài thơ SAY - Quá
Dục Thúy sơn - Tải mai
(bước một)
. Quỳnh Chi
:
Sơn đình hạ nhật
Lục thụ âm nùng hạ nhật trường
Lâu đài đảo ảnh nhập trì đường
Thủy tinh liêm động vi phong khởi
Nhất giá tường vi mãn viện hương
Cao Biền
Sơn đình ngày hạ
Cây xanh thẫm nắng hạ dài
Lầu cao in bóng gương soi đáy hồ
Rèm châu lay gió thoảng qua
Trên giàn hoa ngát hương đưa khắp nhà
Quỳnh
Chi phóng dịch ( 9/8/2009)
. LaiQuangNam
giới thiệu Hạ Tri Chương:
Có một ông thi
sĩ già tên là Chương, tên đầy đủ của ông là Hạ Tri Chương.
Ông nói giọng Quảng khá nặng dù trong tiếng nói có đôi
chút lơ lớ. Ông ra đi đã rất lâu, không ai biết vì lý do
gì, nay cuối đời tìm về thăm quê nhà. Có ba bài thơ tường
thuật chuyến về này, đời sau nay còn lưu giữ. Ông còn nhớ
như in cái lần ngoái nhìn quê hương lần cuối trên bước
đường "?" ; bây giờ "?" là "nửa muốn nhớ, nửa muốn quên"
...
Tiễn
người hoa lá vấn vương,
Đồng
hoa nội cỏ ủ hương... nhớ người!
Văn
học - Luận - Tư tưởng - Thời đại -Ngữ Văn |
. Thảo Đường
Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh :
Ở nước Trung Hoa, từ
thời Chu, Tần, (trước Chúa giáng sinh) có rất nhiều học
giả ra đời, mỗi nhà đều có viết sách, trình bày học
thuyết của mình, với mục đích sửa đổi chế độ, mong
đem lại hạnh phúc ấm no cho con người.
Số học giả ấy không phải
chỉ một vài người, và số tác phẩm viết ra không phải
chỉ một vài cuốn, cho nên mới gọi là Bách Gia Chư Tử,
hay gọi một cách giản dị hơn là Chư Tử.
Người xưa cũng gọi Chư Tử
là các tác phẩm của những nhà học giả ấy viết ra. Danh
từ này được thấy dùng đầu tiên trong pho sách Thất lược.
(...)
. Nguyễn Thị
Chân Quỳnh :
Người
ta thường nói Xuân Hương vì tài cao nên trắc trở đường
tình duyên : lấy phải Tổng Cóc dốt nát, lấy ông Phủ Vĩnh-tường
xứng đôi hơn nhưng lại phải làm lẽ... song đấy là truyền
thuyết. Mãi đến khi đọc "Long-biên trúc chi từ" của Tùng
Thiện vương (1), làm khi theo vua Thiệu-Trị ra Thăng-long tiếp
sứ nhà Thanh sang phong vương (1842), ta mới có bằng chứng
Xuân Hương quả có thật và đã vất vả về đường tình.
Bài thơ gồm 14 đoạn, đoạn 8 và 9 vịnh cảnh Hồ Tây có
nhắc đến Xuân Hương.
(...)
Căn cứ vào mấy câu thơ trên,
ta biết chắc chắn đến năm 1842 thì Xuân Hương đã mất,
tuy không rõ mất năm nào nhưng mộ đã "xanh ngọn cỏ" và
nàng quả đã "rút nhầm tơ duyên"...
Vấn đề rắc rối từ năm
1963, khi ông Trần Thanh Mại phát hiện ra tập Lưu Hương
Ký (LHK) - mà tác giả đích thực mang tên Hồ Xuân Hương-
và bài "Tựa" LHK của Tốn Phong Thị. Xuân Hương trong tập
LHK cũng lận đận về đường tình, nhưng phong cách thơ LHK
thì khác hẳn những bài thơ truyền tụng (TTT) mà ai cũng biết.
Từ đó (1963), các nhà nghiên cứu chia thành hai nhóm : một
nhóm tin tác giả LHK cũng chính là tác giả những bài TTT,
nhóm kia còn ngần ngại.
Dưới đây, tôi lần lượt
trình bầy từng mối tình của tác giả TTT và của tác giả
LHK trong hai phần riêng rẽ, dựa vào những tài liệu đã công
bố trên sách báo, để minh chứng rằng trong hiện tình chúng
ta chưa thể xác quyết tác giả LHK và tác giả TTT là một
người.
. Trần Việt
Điền:
(...)
Chắc chắn
mỹ thuật thời Tây Sơn có kế thừa mỹ thuật thời Hậu
Lê, mỹ thuật thời Nguyễn Đàng Trong nhưng vẫn có nét riêng
biệt. Phan Huy Ích, trọng thần của Tây Sơn, khi nguyên chú
bài thơ Đăng văn miếu ký kiến từng cho biết triều Tây
Sơn có đúc chuông đỉnh theo kiểu thức mới. Có tác giả
nhờ đồng tiền Cảnh Thịnh, một mặt khắc chạm môtip “ngư
long hý thủy”, cũng rút vài nét về rồng Tây Sơn nhưng chưa
làm rõ đặc trưng. Thế thì nghiên cứu để tìm thêm những
đặc trưng của môtip rồng, giao long, hồi văn, mẫu viền…
thời Tây Sơn nhờ chuông đồng, bia đá là việc nên làm.
Phần lớn chuông đồng, bia đá đều có ghi niên đại nên
khá thuận lợi trong nghiên cứu. Ngoài ra còn một nguồn tư
liệu không thể bỏ qua, dẫu ít nhưng thuộc về cung đình
Tây Sơn, có ghi niên đại và có tạo tác rồng, giao long…
như sắc phong, ấn triện, uynh thành lăng mộ, bệ đá, đá
táng cắm cờ, xà gỗ…, sẽ giúp chúng ta nghiên cứu để
bổ sung đặc trưng của môtip rồng, hồi văn hóa long… thời
Tây Sơn vậy. Sau khi có thêm những đặc trưng của môtip rồng
thời Tây Sơn chúng tôi thử giám định những môtip trang trí
ở lăng Ba Vành.
. Georges Nguyễn
Cao Đức :
. Nguyễn Nam
Trân ( biên dịch ) :
Ở
Trung Hoa, đến đời Đường, Thiền đã có một khuôn mặt
rõ ràng. Người ta thường xem việc hoàn thành hệ thống tư
tưởng Thiền Tông như sự khai sinh ra một hình thức tôn giáo
đặc thù nhất của Trung Quốc. Đồng thời, Thiền cũng bắt
đầu biết thích ứng với Phật giáo, tuy không có nghĩa là
lịch sử Thiền Trung Quốc bị sáp nhập vào lịch sử Phật
giáo và ngừng lại ở đó. Về sau, Thiền còn kinh qua nhiều
thay đổi tùy theo những biến chuyển xã hội, ngay cả có
ảnh hưởng đến xã hội nữa. Đến khi Thiền truyền bá
đến Việt Nam, Tây Tạng, Triều Tiên, Nhật Bản...thì ở
mỗi nước, Thiền lại có những bản sắc khác nhau.
Mặt khác, Thiền không phải
là vật sở hữu của các thiền tăng. Thiền có khả năng
giao tiếp với xã hội rất năng động cho nên phạm vi của
nó vượt hẳn ra ngoài giáo đoàn. Cứ xem ở nơi các triết
lý như Chu Tử Học, Dương Minh Học ở Trung Quốc, các hình
thức văn học như Hán Thi, Renga, Haiku, mỹ thuật như viên
nghệ, tranh thủy mặc, các hiện tượng văn hóa như trà đạo,
hoa đạo, kiếm đạo, cung đạo, võ sĩ đạo, tuồng Nô ở
Nhật,...đâu mà chẳng thấy cánh tay của Thiền vươn tới.
Đến thời cận đại, nhờ những hoạt động bền bĩ và
có tầm vóc của triết gia Suzuki Daisetsu, Thiền đã được
giới thiệu rộng rãi khắp thế giới và đi vào những lãnh
vực như triết học, thần học, tôn giáo học, tâm lý học,
tâm lý y học, tâm phân học , sinh lý học...Cho dù cường
độ có khác nhau, không ít thời nhiều, Thiền đã có mặt
trong nhiều khoa học.
Trong quá trình tìm hiểu ảnh
hưởng của Thiền đối với văn hóa Nhật Bản, chúng tôi
bắt buộc mò mẫm lội ngược dòng lịch sử để truy nguyên
nguồn mạch của nó ở Trung Quốc. May mắn nắm được trong
tay cuốn Zen no Rekishi (禅の歴史Lịch
sử Thiền, 2001) của giáo sư người Nhật Ibuki Atsushi (伊吹敦).
Ông sinh năm 1959, tốt nghiệp khoa văn (1982) và hoàn tất ban
tiến sĩ (1993) ở Đại học Waseda rồi trở thành giáo sư
phụ tá ngành văn chương ở Đại học Tôyô. Tuy tuổi còn
tương đối trẻ nhưng giáo sư đã viết rất nhiều tác phẩm.
Ngoài Zen no Rekishi, ông còn có những công trình nghiên cứu
về kinh văn như Tâm Vương Kinh, Niết Bàn Luận, về các danh
tăng như Huệ Khả, Saichô (Tối Trừng). Đặc điểm của Ibuki
Atsushi là đã viết lại lịch sử Thiền Tông không theo lối
thu thập, chắp nối truyện ký và ngữ lục các danh tăng nhưng
theo quan điểm học thuật Tây phương, xem Thiền Tông như một
"sinh vật" xã hội có sống, có chết, do đó chịu mọi sự
chi phối của các yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hóa
và không ngừng biến dạng trong dòng liên tục của lịch sử.
Cái nhìn của giáo sư Ibuki là cái nhìn nhất nguyên, vượt
lên trên mọi dị biệt tông phái (Nam Tông, Bắc Tông) và tôn
giáo (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo), khi ông chứng minh rằng
giữa các tông phái và tôn giáo ấy lúc nào cũng có sự giao
lưu và ảnh hưởng hỗ tương. Cái nhìn của ông cũng là cái
nhìn phê phán tính cách công lợi của các tông phái khi ngụy
soạn những kinh sách hay hư cấu nên những hệ phổ. Ngoài
ra, khác với nhiều tác giả khác, ông đặc biệt lưu ý đến
những nhà tư tưởng thứ yếu nhưng đã là động cơ thực
sự thúc đẩy bước tiến của Thiền Tông. Do đó, đừng
chỉ chờ đợi những tên tuổi lớn như Đạt Ma, Huệ Khả,
Thần Tú, Huệ Năng, Hoằng Nhẫn, Mã Tổ, Thạch Đầu, Lâm
Tế, Vân Môn, Pháp Nhãn...Chính Hà Trạch Thần Hội, Hầu Mạc
Trần Diễm, Khuê Phong Tông Mật, Đạt Quan Đàm Dĩnh, Vĩnh
Minh Diên Thọ, Phật Nhật Khế Tung, Giác Phạm Huệ Hồng,
Trung Phong Minh Bản, Đầu Tử Nghĩa Thanh, Phí Ẩn Thông Dung...những
người đến nay ít có tiếng tăm, mới được giáo sư Ibuki
đặt vào vị trí trung tâm.
Bài viết này hầu như hoàn
toàn dựa vào phần đầu trong 3 phần chính của tác phẩm
nhắc đến bên trên. Tuy nhiên, người biên dịch đã mạn
phép thêm bớt và chua phụ chú ở một đôi chỗ. Vậy xin
gửi đến quí độc giả bản dịch thô vụng này như một
chia sẻ học vấn cùng với lời cảm tạ chân thành đến
giáo sư Ibuki Atsushi cũng như các tác giả khác có tên trong
thư mục tham khảo.
. Nguyễn Nam
Trân ( dịch ):
Ngày
nay khi nói đến thơ Nhật, người ta chỉ nghĩ đến Haiku.
Điều đó không phải không đúng vì phạm vi phổ biến của
thể thơ này quá rộng lớn. Tuy nhiên, thơ Nhật hãy còn là
Ca dao cổ đại (Kayô), Hòa ca (Waka), Hán thi (Kanshi) và thơ
mới (Shintaishi) nữa. Trong đó, Hòa ca đóng vai trò quan trọng
nhất vì thừa hưởng dư ba của ca dao, tiếp nhận ảnh hưởng
cổ thi Trung Quốc, phản ánh từ rất sớm mọi khía cạnh
của tâm hồn người Nhật thông qua một vốn liếng kỹ thuật
tu từ phong phú. Cũng cần phải nói là nhờ Hòa ca (Waka) xưa
kia , ta mới có Đoản Ca (Tanka), Bài Cú (Haiku) ngày nay.
Việc giới thiệu thơ Hòa Ca,
tinh hoa của văn chương cung đình thời trung cổ, do đó trở
thành cần thiết để hiểu văn hóa Nhật Bản. Không thể
nào hiểu một cách thấm thía Murasaki Shikibu, Bashô, tuồng
Nô, kịch Kabuki, Tanizaki, Kawabata, ca nhạc mới... mà thiếu
kiến thức Waka.
. Nguyễn Nam
Trân ( biên dịch ) :
Truyện
thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá
trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức
ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột
ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp
ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng
nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu
hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc
chuyện thiền là vừa học đạo vừa thưởng thức một
tác phẩm văn chương kỳ thú.
Tuy trong lòng
lúc nào cũng có một ngôi chùa làng, thời thơ ấu từng ngồi
một năm trên ghế trường Bồ Đề, lại từng giao lưu thân
mật với các bạn Phật tử tại Paris trong nhiều thập niên,
người biên dịch không phải là đệ tử nhà Phật, cũng chẳng
biết bao lăm về thiền. May mắn là cách đây gần bốn mươi
năm đã được chút kiến thức nhập môn qua những truyện
thiền đầu tiên được dịch ra tiếng Việt trong Tập San
Gió Nội (ở Pháp) in bằng ronéo. Gần đây, trên mạng lại
được thưởng thức bản dịch các tập Lâm Tế Lục, Bích
Nham Lục, Vô Môn Quan, Uyển Đăng Lục, Thập Ngưu Đồ… của
các cao tăng và chư hiền. Nhân vì muốn lợi dụng vị trí
của mình đang sống trên đất Nhật, nên chúng tôi mới thử
tìm hiểu xem các ông bạn láng giềng vốn có truyền thống
Thiền tông lâu đời này đã tiếp xúc với thể loại này
bằng cách nào.
-
VÔ
MÔN QUAN dưới mắt người Nhật (Bản
mới ngày 05/05/09)
[
Trở Về ]
|