S: samudra; »Người mò ngọc«;
Một trong 84 vị Tất-đạt (s: siddha) Ấn Ðộ, đệ tử của A-chin-ta (s: aciṅtapa), có lẽ sống trong thế kỉ thứ 9, 10.
Ông sống tại Sạc-va-ti-ra (sarvaṭira), làm nghề thợ lặn mò ngọc trai. Lần nọ, không mò được ngọc, ông buồn bã đến bãi thiêu xác, ngồi rầu rỉ. Lúc đó A-chin-ta đi qua, hỏi han ông. Ông bỗng tỏ lòng kính trọng, cầu khẩn xin được học pháp. A-chin-ta cho ông nhập môn, giảng về Bốn tâm vô lượng (Bốn phạm trú) và bốn tâm hỉ lạc:
Hãy biết cách thay thế,
tám bận tâm thế gian,
bằng tâm Từ tâm Bi,
bằng tâm Hỉ tâm Xả.
Rồi hãy quán tưởng rằng,
trong chứng thật hoàn toàn,
một luồng lạc thụ lớn,
chảy vào đỉnh đầu ngươi.
Bốn tâm hỉ lạc lớn,
nằm trong bốn trung tâm,
phát sinh Không và Lạc,
Không-Lạc không rời nhau.
Khi lạc thụ ra đời,
Khổ tự nhiên biến mất.
Người thợ lặn nghe lời, chuyên tâm thiền định. Sau ba năm, ông đạt quả Tất-địa (s: siddhi). Bài kệ chứng đạo của ông như sau:
Ngộ được lí vô sinh,
không thực hành thiền định,
ví kẻ ăn thịt người,
trên tay bồng trẻ nhỏ.
Mà không hành thiền định,
tách rời xa Tự tính,
ví như thớt voi mạnh,
bị lún sâu trong bùn.