持 缽; 1049-1117
Thiền sư Việt Nam, thuộc thiền phái Tì-ni-đa Lưu-chi, pháp hệ thứ 12. Sư kế thừa Thiền sư Sùng Phạm.
Sư họ Vạn, quê ở Luy Lâu. Sư thuở nhỏ đã hâm mộ Phật pháp và khi lên 20, Sư đến chùa Pháp Vân xin xuất gia với Thiền sư Sùng Phạm. Nơi đây, Sư ngộ đạo và được Sùng Phạm ban hiệu là Trì Bát.
Sau khi Sùng Phạm tịch, Sư dạo khắp tùng lâm, tham vấn các vị Cao tăng. Tướng quốc Lí Thường Kiệt là thí chủ của Sư. Những tài vật được cung cấp, Sư đều đề hết vào việc trùng tu các ngôi chùa như Pháp Vân, Thiền Cư, Thê Tâm, Quảng An.
Ngày 18 tháng 2 niên hiệu Hội Tường Ðại Khánh thứ 8 đời vua Lí Nhân Tông, Sư gọi chúng lại nói kệ:
有死必有生。有生必有死
死爲世所悲。生爲世所喜
悲喜兩無窮。忽然成彼此
於諸生死不關懷。唵囌嚕囌嚕悉哩
Hữu tử tất hữu sinh, hữu sinh tất hữu tử
Tử vi thế sở bi, sinh vi thế sở hỉ
Bi hỉ lưỡng vô cùng, hốt nhiên thành bỉ thử
Ư chư sinh tử bất quan hoài
Án tố rô tố rô tất rị.
*Có tử ắt có sinh
Có sinh ắt có tử
Tử làm người đời buồn
Sinh làm người đời vui
Buồn, vui đều vô cùng
Chợt vậy thành kia đây
Ðối sinh tử chẳng để lòng
Án tố rô tố rô tất rị.
Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 69 tuổi.