PHONG KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế  - Thu Tứ - Chim Việt Cành Nam
Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]             [  Tác giả ]

PHONG KIỀU DẠ BẠC
của Trương Kế 

Thu Tứ

Nguyên văn
Dịch nghĩa
Dịch ra thơ Đường luật
- Hải Đà
- Thu Tứ
Dịch ra thơ lục bát
- Trần Trọng Kim
- Tản Đà
- Thu Tứ
*
Đây chắc chắn là một, có lẽ chính là "số một", trong những bài thơ Đường nổi tiếng nhất ở Việt Nam.

Trong Đường thi, Trần Trọng Kim nhận xét: "(Phong Kiều Dạ Bạc) hay ở âm điệu, ít khi làm được như thế". Xem lại, tất cả những bài (và những câu) thơ Đường mà chúng ta ưa nhất đều có đặc điểm "hay ở âm điệu", là thứ đặc điểm "ít khi" thấy trong cái tập hợp thơ lừng danh của người Tàu!

"Êm tai" là sở trường của thơ Việt.(1) Ta thiên về thứ thơ giàu chất nhạc, nên thỉnh thoảng gặp được bài "như thế" ở đâu, liền mừng rỡ, vui vẻ trầm trồ, ngâm nga.

Bài thơ du dương của Trương Kế, về tứ có chi tiết hơi lạ. Nguyễn Quảng Tuân nêu: "Người ta cho rằng nửa đêm không làm gì có tiếng chuông chùa" và giải thích: "nguyệt lạc (...) là cảnh lúc về sáng rồi. Tác giả đi nằm lúc nửa đêm song cứ mơ màng (...) khi chợt tỉnh (...) bị ảo tưởng thời gian nên cho là mới có nửa đêm"(2)...

Bất kể đêm xưa chùa Hàn San thỉnh chuông vào giờ nào, tiếng chuông ấy đã ngân nga thật lâu trong thơ!

Nguyên văn

Phong Kiều dạ bạc

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Dịch nghĩa

Bến đêm Phong Kiều

Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời
Một bên là cây bờ sông và đèn câu, một bên là giấc ngủ buồn
Từ chùa Hàn San bên ngoài thành Cô Tô
Nửa đêm tiếng chuông vọng đến thuyền khách.

Dịch ra thơ Đường luật

Hải Đà:

Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ
Cầu Phong đốm lửa giấc sầu mơ
Hàn Sơn khuất bãi Cô Tô vắng
Đêm điểm hồi chuông khách sững sờ...

Thu Tứ:

Trăng xế, quạ kêu, sương kín trời
Đèn lu, cây tối, ngủ buồn ơi
"Nửa đêm" chuông đánh, chùa đâu lạ
Tỉnh giấc ai ơi, sắp sáng rồi!

Dịch ra thơ lục bát

Trần Trọng Kim:

Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi,
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co.
Con thuyền đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

Tản Đà:

Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Thu Tứ:

Quạ kêu trăng xế trời sương,
Đèn lu cây tối, chập chờn tỉnh mê.
Nửa đêm thức giấc nằm nghe,
Chùa đâu chuông đánh xa đưa tận thuyền.
____________

(1) Xem bài Thơ Nhạc, Thơ Tranh của TT.

(2) NQT, Thơ Đường - Tản Đà dịch, nxb. Trẻ, TPHCM, 1989, tr. 96-98.