Chim Việt Cành Nam        [ Trở Về  ]            [ Trang chủ

Mội Thầy Thơ

Nguyễn Thanh Bạch

Quê tôi có những tên nghe rất hiền hoà. Nơi tôi sanh ra là ấp Hoà Mỹ, làng Ðịnh Hoà, tổng Bình Phú, tỉnh Bình Dương, ở về phía đông miền Nam nước Việt. Nơi đây không có đồng ruộng mênh mông cò bay thẳng cánh hay những ngọn núi cao hùng vĩ, những thác nước ngoạn mục; cũng không có bờ biển sóng vỗ rì rào, đồi cát nhấp nhô hay những cánh rừng bao la bát ngát. Tôi lớn lên giữa những lũy tre xanh, những thửa ruộng chạy dài theo các con suối có những bờ đê cao cây cối um tùm. 

Những ngày nghỉ học, tôi thường đi dọc theo bờ suối để nghe tiếng nưóc chảy róc rách, tiếng chim kêu ríu rít trên cành cây, để hái những chùm nhản lồng chín vàng hoặc trái trâm màu tím long lanh dưới ánh sáng chói chang của mặt trời mùa hè. Nhưng điều tôi thích thú nhất là được ngâm mình trong lòng nưóc mát của mội Thầy Thơ.

Mội Thầy Thơ dính liền với con suối phân ranh giới giữa làng tôi và làng kế cận. Làng nầy cũng có một cái tên dễ thương, có nghĩa có tình, làng Tương Bình Hiệp. Người nông dân sống ở miền đồng quê tỉnh Bình Dương đều biết đến những cái mội nằm giữa đồng ruộng vì đó là nguồn cung cấp nước uống trong sạch không cần phải đào giếng như ở các vùng đất cao.

Mội thoát thai từ những mạch nước ngầm phun lên từ lòng đất bùn lầy. Muốn có được một cái mội tốt, phải đào khoét cho sâu rộng thành một cái hồ lớn nhỏ tuỳ theo ý mình, rải một lớp sỏi đá ở phía dưới đáy và đắp bờ xung quanh có chừa những lỗ thông ra ngoài cho nước có thể thoát ra được.

 Những cái mội lớn như mội Thầy Thơ còn là nơi dân làng đến để tắm rửa, giặt giũ quần áo. Mội Thầy Thơ lại ăn thông với con suối chảy ngang qua đây,  rộng khoảng ba thước bề ngang, đoạn suối nầy cũng được khoét sâu để làm bến tắm  cho ngựa và trâu bò. 

Thầy Thơ là một ông thầy giáo làng đã để lại tên của mình cho cái mội sau khi mất đi, do công đã tập hợp dân hai làng tiếp cận, góp công góp vật dụng để xây thành một cái mội ba ngăn rộng rãi và sạch sẽ, một ngăn để lấy nước uống, một ngăn để tắm rửa và ngăn còn lại để giặt giũ quần áo. Ngay tại lỗ mội, nơi mạch nước phun lên, được khoét rộng ra lớn hơn một cái giếng thường. Nưóc phun lên không ngừng, rất trong và rất mát. Dân làng truyền lại cho nhau và vẫn tin rằng mạch nước của mội ăn thông với một cái mội lớn khác nằm ở bên đồng ruộng làng Tương Bình Hiệp, cách đó hơn một cây số. Đã có người  thả một mãnh ván từ bên mội bên kia, sau đó, nó đã trôi qua và trồi lên ở lỗ mội bên nầy.

Thầy Thơ và bà con lối xóm đã xây bằng đá ong một ngăn cho lỗ mội làm nơi riêng biệt. Dân chúng chỉ được múc nước để uống hoặc gánh mang về nhà, chứ không được tắm giặt tại đây. Phía bên ngoài, thầy Thơ cho xây thành một cái hồ rộng khoảng năm thưóc dùng làm nơi tắm rửa, kế đến là nơi giặt quần áo, ăn thông qua con suối. Vào mùa mưa, có lúc con suối bị ngập, nước dâng lên tràn vô phía trong mội nhưng ngay tại lỗ mội thì nước vẫn trong vì mạch nước lúc nào cũng phun mạnh lên từ đáy mội, xua đi nước đục từ con suối tràn vào. Phía ngoài suối, là  bến tắm trâu bò. Nếu không có mưa lụt thì nước cũng trong nhờ có lớp cát sỏi dầy nằm dưới lòng suối.

Một tàng cây trâm che mát phần bên trong mội. Cây trâm cổ thụ không biết có tự bao giờ mà thân của nó lớn một người ôm không xuể. Các bác nông dân hay dùng  thân cây trâm để cạ lưng kỳ đất nên một bên vỏ cây trâm mòn nhẵn. Tôi còn nhớ có một hôm một bác vừa đưa lưng vô cây trâm kỳ cọ đã vội nhảy tưng tửng vừa gải lưng  vừa la oai oái. Hoá ra vỏ cây trâm đã bị người nào chơi ác bôi trái mắt mèo. Mắt mèo là loại dây leo. Dây, lá, trái đều có lông vàng, dính vào mình thì bị ngứa  ngáy vô cùng. Thứ trái nầy có khi cũng được các cậu học trò " rắn mắt " bôi vào ghế ngồi để phá các ông thầy giáo nghiêm khắc.

Mội thường rất đông người, nhất là những buổi trưa hè nắng gắt. Được ngâm mình trong nước mội mát lạnh, tai lắng nghe tiếng chim thảnh thót trên tàng cây là một điều vô cùng thích thú. Các cô gái ở nhà gần hai bên bờ suối thường đến đây gánh nước. Có điều là các cô phải canh giờ nào có ít người tắm giặt và phải cẩn thận lên tiếng trước khi bước xuống mội để báo động cho bác nào đang lỡ tắm truồng thì kịp thời che thân.. Cẩn thận hơn nữa là đứng trên bờ có hàng tre che khuất, chờ cho đến khi nào được gọi mời thì mới đi xuống. Cũng có nhiều cô - thường là các bà lớn tuổi - bạo dạn hơn, không cần chờ đợi, cũng không nói năng gì cả, cũng không liếc nhìn ai, nhắm thẳng hướng lỗ mội xông tới, múc nước đầy thùng rồi quay đi thẳng một mạch.

 Mội Thầy Thơ còn là nơi hẹn hò của các chàng trai quê và những cô gái mộc mạc của hai làng bị ngăn cách đôi bờ bởi con suối " vô tình ". Từ làng bên nầy nhìn sang làng bên kia họ không nhìn thấy nhau vì bờ suối rất cao bị phủ lấp bởi những hàng cây chằng chịt. Muốn gặp nhau, họ phải tìm cách đến cái mội, nàng thì đi gánh nước hoặc đi đãi gạo nếp để nấu xôi cúng đình, chàng thì dẫn trâu cày đi tắm. Họ đến đây có khi chỉ để len lén nhìn nhau mà không nói với nhau một câu nào. Có khi họ ấp úng khẽ nói lên một lời chào hỏi rồi thôi, mạnh ai nấy làm công việc của mình. Rồi sau đó, trước khi lên bờ, hai người rẽ theo hai lối, họ bỡ ngỡ nhìn nhau, gật đầu chào nhau, lòng rộn ràng vui một niềm vui đầy ước vọng. Cũng có những cặp quen nhau đã lâu nên bạo dạn hơn, lựa buổi trưa vắng người, lén cùng nhau đi dọc theo bờ suối, vừa đi vừa hái trái nhản lồng vừa thỏ thẻ tâm sự hoặc cùng chạy đuổi bắt con bướm vàng, làm nuớc bắn tung lên ướt cả mình mẩy. 

Nhiều cặp trai gái đã kết thành vợ chồng, ăn đời ở kiếp với nhau sau những buổi hẹn hò tình tự tại mội Thầy Thơ. 

Vào mùa cấy lúa, mội Thầy Thơ còn là nơi nghỉ giải lao - mà dân làng nói là nghỉ nửa buổi - của những đám thợ cấy vần công. Từ sáng sớm, khi giọt sương còn ướt đọng trên cành cây ngọn cỏ, nghe tiếng tù và báo giờ đi cấy trổi lên một giọng buồn buồn, các tay thợ cấy lũ lượt kéo đến mãnh ruộng của một người trong nhóm để cấy giúp. Cấy vần công thì không có trả tiền vì đây là một hình thức tương trợ luân phiên. Nhưng đến giờ giải lao thì các tay thợ cấy được cho ăn nửa buổi. Bửa ăn không có gì là cao lương mỹ vị mà thuờng là xôi chè, có khi có thêm món đặc biệt là bánh trôi nước mà quê tôi quen gọi là chè xôi nước. Buổi trưa hôm đó, mội Thầy Thơ vang lên tiếng nói cuời hồn nhiên vui vẻ.

Vào mùa mưa, có lúc mưa dầm, quê tôi trở nên đìu hiu quạnh quẽ. Nước suối từ trên nguồn đổ xuống ào ào, có khi nước suối cao lên tới ngực. Nuớc tràn vào trong mội nhưng nước tại lỗ mội vẫn trong vì nước phụt lên từ lòng đất lúc nào cũng rất mạnh, đánh bạt nước suối đục ra ngoài. Lúc đó, đối với học trò trường làng, một mình băng qua con suối để đi học là một việc khó khăn, nguy hiểm. Cho nên, mấy bửa trời mưa như vậy, thường ba tôi đưa tôi băng qua suối để đi đến truờng tiểu học nằm bên cạnh chợ Bưng cầu thuộc làng Tương Bình Hiệp. Theo lời ba tôi thuật lại, một người anh của tôi -  tôi có chín anh trai tất cả -  đã một lần bị nước cuốn trôi đi vì đã lội qua suối một mình. May có người trông thấy, gõ mõ báo động, kêu cấp cứu, nhờ bà con lối xóm chạy tìm dọc theo con suối, cứu thoát được. Anh tôi đã một phen hoảng vía kinh hồn, uống đầy một bụng nước. Và cũng may mà anh tôi hồi ấy đã biết bơi, và rất khoẻ. Sau biến cố đổi đời 1975, lúc đó anh tôi đã trên sáu mươi tuổi, đi xe đạp về quê chở một bao gạo xuống Sài gòn là chuyện thường làm mặc dầu đường có nhiều dốc cao và khoảng xa trên ba mươi cây số.

Trong thời tuổi thơ, tôi sống gắn bó với mội Thầy Thơ. Mỗi lần đi học, băng qua mội, tôi không bao giờ quên ghé lại đây uống một hơi nước mát rượi và rửa mặt cho tỉnh nguời. Mỗi lần đi mò cua, tát cá hay hái rau ở đồng ruộng quanh đó, tôi đều mang đến đây để lặt rửa và ngâm mình trong nước mát trước khi về nhà.

Trong thời gian học ba năm tiểu học, mỗi tháng tôi dến nhà một người chú họ, chú tám Hắng, nhờ cạo đầu một lần. Chú tên thật là Hớn, Nguyễn Văn Hớn. Nhưng bà con trong xóm kêu trại là chú tám Hắng. Theo tôi đoán, có lẽ tại vì  bao giờ chú cũng tằng hắng trước khi muốn nói điều gì. Mỗi lần chú cạo đầu xong, chú tám dẫn tôi xuống mội để gội đầu cho sạch đồng thời chú cũng đem con dao theo để mài luôn vì tại phía trong mội có một cục đá mài dao tròn, lớn bằng hai cái thau nước đã mòn nhẵn từ đời nào, vừa dùng làm đá mài dao vừa dùng làm cái thớt để giặt quần áo, rất tiện lợi. Cho tới khi học xong bực tiểu học, thi đậu bằng tiểu học, sắp ra tỉnh lỵ học tiếp, tôi xin tiền ra chợ để hớt tóc, ba má tôi vẫn chưa chịu cho, vẫn cứ nhờ chú tám cạo đầu. Phải chờ ba năm sau, thi đậu xong bằng sơ học và trúng tuyển vào trường trung học Petrus Ký, tôi mới được phép từ giả chú tám Hắng. Tôi còn nhớ, sau lần hớt tóc ở tiệm đầu tiên, một mình chạy xuống mội để gội đầu, tôi cảm thấy vui một niềm vui khó tả. Con người tôi sảng khoái vô cùng và cảm thấy mình lớn hẳn lên. Khi tôi đến chào từ giả ông thầy cũ của tôi ở trường tiểu học trước khi đi xuống Sài gòn học, thầy tôi không còn vò đầu tôi như những lần trước, lúc đầu tôi còn được chú tám cạo trọc.

Dầu phải từ giả ruộng đồng để đi Sài gòn tiếp tục học, mỗi kỳ nghỉ hè trở về làng, ngay sau khi gặp mặt ba má tôi là ba chân bốn cẳng tôi vội chạy ngay xuống mội Thầy Thơ. Trước hết, tôi vô ngay lỗ mội để nốc một hơi cho đả thèm. Sau đó, tôi ngâm mình thật lâu trong lòng nước mát. Tôi muốn được hoà mình vào nước mội để làm vơi đi nỗi nhớ nhà sau những ngày xa cách!

Nhìn con suối róc rách chảy, nhìn cánh đồng xanh long lanh dưới ánh nắng vàng, tôi muốn hét to lên, trút bỏ hết những nỗi niềm tâm sự, quên hết những nỗi ưu phiền!

Tôi đã sinh ra và lớn lên ở nơi nầy, tôi sẽ trở về nơi nầy dầu có phải đi xa vì nơi nầy muôn đời vẫn là quê hương của tôi!

     Nguyễn Thanh Bạch
(Trích " Hồi ký)