Chim Việt Cành Nam              Trở Về   ]            [ Trang chủ ]               

Nhân đọc lời tự thú của một Sư Cô.

Trần Kiêm Đoàn

Lâu nay, nhiều người được đọc một bài viết nhan đề: "Lời tự thú của một Sư Cô" [1] được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới thông tin điện tử và báo giấy tiếng Việt toàn cầu.

Đây là lời "tự thú" của một nữ tu sĩ Phật giáo, 50 tuổi đời và có hơn 30 năm tuổi đạo. Tuy lai lịch thực hư của tác giả chưa được xác định rõ ràng, nhưng người viết đã nói lên hai vấn đề được đề cập khá rộng rãi và thường xuyên trong sinh hoạt đạo Phật từ xa xưa đến bây giờ: Trí tuệ và Pháp môn.

Theo lời tự giới thiệu của tác giả bài viết - sư cô Thích Nữ Tuệ Nhi (?) - thì bản thân sư cô trong suốt hơn 30 năm qua vừa tu hành, vừa học hành nên đã đạt được "4 văn bằng đại học, 2 bằng tiến sĩ, làm giảng sư; nhưng chưa hiểu được gì về con đường tu hành cầu giác ngộ của đạo Phật cả." Sư cô đem bản thân mình so với thân phụ và thân mẫu: Hai cụ tuy không có điều kiện học hành, ít chữ nghĩa; song lúc về già chỉ chuyên tâm niệm Phật mà "phát minh được trí huệ qua quá trình niệm Phật... nên khi chết được vãng sanh về cõi Phật." Trong khi đó, sư cô Tuệ Nhi tự đánh giá bản thân qua lời tự thú rằng, tuy sư cô có bằng cấp đầy mình nhưng vẫn còn lạc hướng vì "chỉ có sở học thế gian mà chưa hiểu đạo để phát minh trí huệ" mà tu hành, cầu tìm con đường giải thoát chân chính. (Xin mời xem nguyên văn "lời tự thú" của sư cô Tuệ Nhi trong phần phụ chú).

Độc giả, kẻ đang viết những dòng nầy, đã có "duyên" được đọc thì cũng xin "trợ duyên" mạo muội góp đôi lời sơ luận:

*

Đi vào một thế giới Phật giáo thật sự không phải là đi vào một thiền lâm kinh điển tôn giáo; nhưng là đi vào một thế giới sống động muôn màu muôn vẻ của dòng đời đa dạng mà ngôn từ Phật giáo thường gọi là Vạn Pháp. Tuy nhiên dẫu vạn pháp mênh mông qua biểu hiện hình tướng thì tự bản chất của lý tưởng giác ngộ giải thoát cũng chỉ quy hướng về một mối - vạn pháp quy nhất - không ta, không người; không đối tượng, không chủ thể nào còn tồn tại. Cái "nhất" lắng đọng, thanh tịnh hầu như tuyệt đối đó mới là con người thật của chính mình. Cái "Vô ngã thuần khiết tuyệt đối - Purely absolute non-egoism" của lý tính phương Tây chỉ mới dừng lại ngang ý thức và vô thức. Chỉ có lý nhà Phật mới tìm đến thể tánh mà trong kinh điển Hán tạng thường gọi là "bản lai diện mục" với bản thể thanh tịnh không hề sinh mà cũng chẳng hề diệt. Cái Thật hay Không Thật đều sẽ không còn. Tất cả đều không cần dựa vào một đối thể nào khác mà chỉ còn chân tánh (Phật tánh) thường hằng tự tại, như như bất động.

Khi không còn Ta và Người đối đãi nhau thì những cái Mình - Ngã - đầy vọng tưởng như ta, tôi, tớ, ông, bà, chú, bác, anh, chị, em... và vô vàn cái mũ, chiếc áo xác định thân tướng sẽ tan biến; tâm ý sạch làu; tất cả đều tuyệt diệt không còn chỗ dựa là ở trạng thái giác ngộ. Người tìm được trạng thái giác ngộ là bậc giác ngộ, là Phật. Có hằng hà sa số chư Phật đã lấy vô lượng pháp môn làm phương tiện mà đi đến giác ngộ đều giống nhau, nghĩa là cùng một bản lai diện mục, cùng một tính Phật như nhau. Đức Phật Thích Ca trong đêm Giác Ngộ đã chiến thắng huy hoàng bảy đợt tiến công của sáu binh đoàn loài quỷ Lục căn Mara mà đợt quyết liệt nhất trước bình minh là sự đối mặt với Quỷ vương dữ dằn, hung hãn và nguy hiểm nhất, đó là "Quỷ Vương Ta." Cái Ta bất trị không thể quên, không thể cùm, không thể khóa, không thể phân, không thể diệt được. Cái Ta chỉ chịu biến mất tạm thời hay vĩnh viễn giữa rỗng lặng, trong diệu không. Đó là khi Ngã không còn gì, kể cả chính nó. Khi Ngã không còn điểm tựa, mặt trời Giác Ngộ bừng sáng chiếu hào quang từ trong cõi Tâm - diệu ứng thanh tịnh vô ngã - của Ngài.

Đạo Phật lấy Từ Bi để cứu khổ và giải thoát đau khổ; lấy Trí Tuệ để làm phương tiện tiến tới chỗ giác ngộ tròn đầy, viên mãn. Không có Từ Bi thì Phật giáo chỉ là một trường phái học thuật không thể giải thoát ra khỏi khổ đau, chẳng cứu được ai ra khỏi tam đồ ác đạo. Không có Trí Tuệ thì Phật giáo chỉ là quần thể thực hành bái vọng phiếm thần không thể đạt đến giác ngộ, thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử. Trí tuệ tròn đầy và phương tiện dùng đúng (trí tuệ viên mãn, pháp môn diệu dụng) là điều kiện lý tưởng để hành giả nương nhờ.

Tam tạng kinh điển nhà Phật trùng trùng như núi cao, biển rộng cũng chỉ hướng đến một điểm đích sau cùng: Phá sự tối tăm để phát huy trí tuệ .

Trí tuệ trong đạo Phật.

Khái niệm trí tuệ là gì và vai trò của trí tuệ trong đạo Phật như thế nào là một đề tài đã được chư thiền đức của nhiều môn phái, các luận sư, cũng như các bậc thiện tri thức tu và học Phật minh định, luận bàn và lý giải đủ mọi chiều hướng, nhiều góc cạnh xưa nay. Từ những lý thuyết cao xa cho đến những ý nghĩ gần gũi và đơn giản nhất, tuy có khác nhau về đại thể nhưng vẫn có điểm chung nhất gặp nhau: Phải có cái học rốt ráo, tinh thâm trước đã thì trí tuệ mới phát sinh. Bước vào cửa Thiền thì phải hiểu khái niệm về cái học theo một nghĩa thoáng rộng và tích cực hơn là cái học chỉ biết gói trọn trong nhà trường và sách vở. Xưa nay, chỉ có đạo Phật mới tôn xưng các "Bậc Vô Học"lên trên hàng "Hữu Học", ngang tầm á thánh.

Học có hai bậc: Bậc hữu học và bậc vô học.

Bậc hữu học có sự hiểu biết nhờ nghe, đọc và quan sát lời giảng, bài viết, chĩ dẫn từ những bậc thầy, bậc thiện tri thức (văn). Sau đó tự mình suy nghĩ, quán chiếu (tư). Đem hiểu biết ứng dụng vào hành trì (tu). Văn-Tư-Tu là tam huệ học.

Bậc vô học là người "vô sư tự ngộ", nghĩa là tự chính mình học, tư duy, quán chiếu bằng phương tiện tự thân như nghiêm trì giới luật (giới), công phu thiền định (định), rồi đi sâu vào quán niệm sự lý để phát sinh trí tuệ (huệ). Giới-Định-Huệ là tam-vô-lậu học.

Đức Phật Thích Ca cũng đã từng trải nghiệm cả hai bậc học. Khi còn là thái tử Tất Đạt Đa, ngài đã được học với những bậc danh sư khắp nơi được mời về cung giáo huấn. Khi xuất gia, sau năm năm học đạo với các đạo sư và sáu năm khổ hạnh công phu, tu sĩ Cồ Đàm vẫn chưa tìm ra chân lý liễu thoát sanh tử. Cầu bên ngoài không tìm ra con đường đạo, ngài phải quay lại nhìn Bến Tâm của chính mình. Bi và Trí chưa đủ. Phải cần hạnh Dũng mới bứt phá được trùng vây của vô minh che khuất tự tánh. Bốn mươi chín ngày đêm thiền định dưới gốc cây bồ đề trong rừng vắng, ngài đã tự mình thắp đuốc lên mà đi. Trên trời, dưới đất chẳng có nơi nào để dựa. Chỉ có mình ta duy nhất (duy ngã độc tôn) phải tự chính mình vượt cửa ngõ cuối cùng đi vào nội tâm. Mọi khởi niệm sơ xưa, mọi vọng tưởng mong cầu, mọi chấp trước bỉ thử đều vắng bặt. Ngài tìm được Bến Mình, Bến Tâm, Bến Thật như nháy mắt đột phá long trời "Big Bang" của vũ trụ và hốt nhiên đại ngộ. Người đời sau kể chuyện Phật giác ngộ cũng giông giống như các nhà khoa học kể chuyện Big Bang xẩy ra 14 tỷ năm về trước...

Những nhà nghiên cứu Phật học vẫn thường phân biệt hai thành phần Trí ThứcTrí Tuệ, tương tự như người đời thường phân biệt Học ThứcTrí Thức. Như một học giả thâm uyên biết rộng khắp mọi khái niệm về khổ và lý thuyết diệt khổ thì mới chỉ được phần trí thức. Nhưng có đạt được trí tuệ hay không là do công hạnh hành trì thực chứng.

Đỉnh cao nhất của trí thức thiền lâm là trí tuệ. Nhưng có chăng được sự sở đắc trí tuệ mà không cần qua quá trình học và tập và để khai mở tuệ giác của tri thức?

Những trường hợp không thông qua cái sở học bình thường mà vẫn đạt tới được trí tuệ viên mãn như biểu tượng Lục Tổ Huệ Năng hay ẩn dụ về một đại đệ tử thời đức Phật tại thế là Châu Lợi Bàn Đà, một người chịu nghiệp độn căn từ tiền kiếp, đi tu mà học hoài không thuộc mấy câu kinh nên đức Phật chỉ cho học hai chữ "cái chổi". Nhưng từ cái chổi đó mà quét được màn vô minh và chứng ngộ. Tưởng cũng cần gột rửa bớt thói quen ước lệ thiếu chân xác về cái sở học thế nhân. Không biết đọc những ký hiệu quy ước của một nhóm người hay xã hội nào đó (như hình thức ký hiệu abc... được tạm gọi là chữ viết chẳng hạn) không có nghĩa là "mù chữ". Không học những mớ hiểu biết quy ước của một quần thể xã hội nào đó (tạm gọi là kiến thức) không có nghĩa là "vô học"! Học là một quá trình động não và động tâm lâu dài để tìm tòi và thấy được ý nghĩa thật sự của dòng sống bên trong đối tác với xã hội và thế giới bên ngoài. Đến trường, học thầy, đọc sách... chỉ mới là một hình thức phương tiện trong muôn vàn phương tiện của cái học.

Trường hợp sư cô Tuệ Nhi tự thú nhận là Cô chỉ có thuần trí thức mà không phát huy được trí tuệ. Sau giấc ngủ dài 30 năm chỉ biết bắt chước và làm theo thói quen mà có người dẹ nhạ gọi là "luật", sư cô Tuệ Nhi trăn trở tìm đường thoát ra khỏi ngục tù của khái niệm về tri thức. Nhưng không sao đâu, thưa Sư cô, chư tổ thiền lâm đều dạy rằng, khi một người tự biết mình có tri thức mà chưa có được trí tuệ thì đó là đang có được ánh sáng khởi đầu của trí tuệ. Tự biết mình là sự khám phá khai tâm đầu tiên và quan trọng nhất trên đường tìm trí tuệ.

Định nghĩa người có trí thức - đặc biệt là "trí thức Phật giáo" - như thông thường được hiểu và người có trí tuệ như đạo Phật thường định nghĩa là một cách cường điệu hóa hay tuyệt đối hóa căn cứ trên những tiêu chuẩn và phạm trù chỉ có về mặt lý thuyết hơn là thực tế. Trong xã hội đời thường, những phẩm chất biến hiện và tương tác qua lại giữa người có sở học cao (học thức) và kẻ biết đem tài năng học vấn giúp đời (trí thức) có sự dẫm chân và giao hưởng với nhau. Đóng những cái khung định nghĩa lý thuyết có vẻ như là một hình thức chơi chữ mang tính giả định. Trên thực tế, sẽ rất hiếm mà tìm ra được hai mẫu "khuôn đúc" học thức và trí thức rạch ròi tách biệt nhau giữa đời nầy. Cũng tương tự như thế, sự phân định một Phật tử thuần túy là học giả, trí thức đời thường và một Phật tử chỉ có ròng tuệ giác, trí tuệ thiền lâm tách biệt nhau rạch ròi giữa hai biên giới như đen với trắng là điều không thật có giữa đời thường.

Xuất phát từ biên kiến phân biệt đầy giả định đó, trong một quá khứ không xa và quán tính còn rơi rớt lại ngày nay là khuynh hướng học Phật mang nặng tính chấp trước. Đấy là khuynh hướng cho rằng, muốn tu hành đoan nghiêm và hành trì giới luật nghiêm cẩn thì kẻ tu hành phải tránh xa cái học của thế nhân. Gay gắt hơn nữa là định kiến khư khư về tác dụng tiêu cực của bằng cấp, học vị đời thường chẳng những đã không có lợi mà còn làm cho cái học kinh tạng, nội điển của kẻ tu hành bị lệch hướng, sai đường. Nhiều vị bổn sư trú trì chùa viện đã "bế môn, tỏa chiết" không cho đệ tử mình theo học trường ốc bên ngoài mà bắt phải ở trong bốn bức tường của Hán tạng "nội điển". Hoặc giả như trường hợp sư cô Tuệ Nhi đã nêu dẫn ở trên, người đã đạt "hai bằng tiến sĩ" và làm giảng sư nhưng lại tự thú nhận là chẳng hiểu gì về Phật học và con đường tu hành thanh tịnh cả. Có chăng hiện tượng nghịch lý khi một "giảng sư tiến sĩ tu sĩ" đã thọ đại giới mà lại đi giảng mây, giảng khói không biết mình nói gì trong suốt ba mươi năm làm giáo thọ?! Trong cái học phổ thông, Đông cũng như Tây, tiến sĩ là cấp học của người nghiên cứu tương đối độc lập theo những phương pháp luận (methodology) khảo chứng, phân tích và tổng hợp các dữ kiện khoa học và nhân văn. Không rõ sư cô Tuệ Nhi đã đi theo trường phái học thuật nào mà cấp học cao nhất lại dẫn đến sự trống trải của tri thức khiến cô phải ân hận muộn màng đến như thế?

Trên thực tế, nền học thuật kinh viện nội điển cũng như ngoại thư của Phật giáo có sự gắn bó hỗ tương với nền học thuật hàn lâm ở ngoài đời. Đại học Phật giáo Ananda được xây dựng từ thế kỷ thứ 2 tại Ấn Độ với một quy mô lớn lao trên 10.000 thành viên theo học đã đào tạo ra những nhà Phật học uyên bác như Long Thọ, Thế Thân, Huyền Trang đã phát huy văn hóa Phật giáo trên đường học thuật suốt cả nghìn năm. Tuy đại học Ananda bị các thế lực Hồi giáo du mục cực đoan phá hủy năm 1197; nhưng kho tàng tri thức từ chốn thiền lâm học hiệu nầy vẫn còn lan tỏa mỗi ngày càng xa và càng rộng cho đến ngày nay. Những danh tăng trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo đều là những học giả thâm uyên. Ngày nay,việc đào tạo Tăng, Ni là một quá trình tu và học song song. Ở Tây Tạng, muốn trở thành một nhà sư đúng nghĩa phải qua một quá trình học tập gian khổ suốt 15 năm. Hầu hết các nhà sư Tây Tạng đều có bằng cấp tương đương với tiến sĩ Phật học gọi là Geshi. Các tu sĩ thuộc thế hệ trẻ ở Việt Nam, Thái Lan, Đài Loan, Nhật Bản ngày nay đa số tốt nghiệp Cao đẳng Phật học. Đạo Phật lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để tu cầu giác ngộ. Ngoại trừ những trường hợp biệt lệ "vô sư tự ngộ" hiếm hoi thì quá trình học hỏi (văn), suy tư (tư) để hành đạo (tu) vẫn là một tiến trình phổ biến trong sinh hoạt Phật giáo từ xưa đến nay. Bởi vậy, phủ nhận vai trò quan trọng của tri thức và giáo dục là hoàn toàn không khế hợp với tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ căn bản của Phật giáo.

Pháp môn Niệm Phật Vãng Sanh.

Đạo Phật là một phương tiện tìm cầu thoát khổ và chứng ngộ. Đức Phật không đóng vai trò của thần linh quá cao viễn và xa vời mà thường tự nhận là một phương tiện khai phóng giác ngộ. Người giác ngộ là Phật. Sinh thể mọi loài đều có hạt giống giác ngộ tự thân nên đều có khả năng thành Phật. Dẫu là bậc Thiên Nhân Sư nhưng đức Phật Thích Ca không tự cho mình là cứu cánh. Ngài luôn luôn tự coi mình là một phương tiện như người thầy thuốc và giáo lý nhà Phật là những vị thuốc chữa bệnh vô minh, đau khổ của trần gian.

Đạo là con đường mà đạo Phật là con đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy - vô lượng pháp môn tu - tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể không ai giống ai mà đi theo con đường thích hợp.

Phật giáo từ Ấn Độ du nhập vào Trung Hoa. Hai nguồn tư tưởng Vệ Đà và Lão Trang Khổng gặp nhau trên chiếc cầu Phật Giáo kéo theo hai truyền thống văn hóa và xã hội Ấn - Hoa vừa dò tìm nhau vừa tương tác với nhau. Hoa sen Phật giáo Ấn Độ nở trên hồ Động Đình Trung Hoa nửa thực, nửa hư. Nguồn tư tưởng tâm linh nầy vừa cao sâu chót vót nhưng cũng vừa chất phác nông dân; vừa bén rễ vào hiện thực nhưng cũng vừa trổ hoa huyền thoại. Qua hơn hai nghìn năm, Phật giáo Trung Hoa đã lan tỏa tới những vùng lân cận. Đạo Phật cung đình và thiền lâm tự viện đi vào đại chúng, khế hợp với truyền thống văn hóa và tín ngưỡng của xứ nầy:

Đạo Phật có gần ba mươi bộ phái, nhưng nổi bật trên đất Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam là các tông phái có luật tắc riêng làm tông chỉ: Thiền (đến thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật), Mật (lấy Tam Mật - thân, miệng, ý tương ưng - và ấn chú để truyền thừa), Tịnh Độ (một lòng niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc), Hoa Nghiêm (lìa thế gian, nhập pháp giới), Thiên Thai (mở toang mọi cánh cửa để tìm về cái thấy và cái biết của Phật), Tam Luận (lìa cả hai bên để tìm về Trung Đạo), Luật (hành trì và giữ gìn giới luật nghiêm cẩn), Pháp Tướng (đem vạn pháp về chân Duy Thức)... và vô lượng pháp môn tu. Sự phóng khoáng và cao viễn của đạo Phật phản ánh qua truyền thống dung hợp và hóa giải tinh thần "vô lượng pháp môn" nầy. Có vẻ như hành giả tịnh tu càng ngày càng hiếm và con người ồn ào, vọng niệm càng ngày càng nhiều. Đó là hiện tượng khi người ta không tự an trú trong pháp môn của mình đang theo mà cứ kiểng chân, chỉ tay vào pháp môn của người khác để phản bác hay cho là "tà kiến ngoại đạo". Pháp môn Tịnh Độ - niệm Phật vãng sanh - mà Sư cô Tuệ Nhi nói đến trong "lời tự thú" là một trường hợp điển hình của tình trạng biên kiến pháp môn nầy. Phật giáo Trung Hoa và Nhật Bản cũng đã trải qua những thời kỳ tương tự. Pháp môn Tịnh Độ được xiển dương rầm rộ. Tu sĩ, hành giả tận dụng hết mọi lời hay, ý cả để nói về sự cao siêu mầu nhiệm của pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh. Nhưng rất nhiều trường hợp, sự luận giải đã đi quá xa; vô hình chung, tiến gần đến khuynh hướng mê tín dị đoan và cuồng tín. Thậm chí, họ biến đức Phật A Di Đà thành một hình tượng Thượng Đế toàn năng đang dang tay đưa hết thảy sinh linh quy phục mình về Nước Trời và biến cảnh Tây Phương Cực Lạc thành một thế giới Thiên Đường đầy ảo vọng. Vọng niệm cực đoan là nguyên nhân suy thoái trong sinh hoạt Phật giáo bất kỳ ở xứ nào. Nhiệt tình đem pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật cầu vãng sanh ra để làm cái dù che chắn hết tinh hoa của những pháp môn khác thì chẳng khác gì hành động lấy con đường làm phương tiện cho cổ xe. Trường hợp sư Nhật Liên (Nichiren; 1222-1282), cao tăng Nhật Bản, khai tổ Nhật Liên Tông là một thí dụ điển hình. Bình sinh, sư Nhật Liên quan niệm rằng, chỉ có bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa mới là tuyệt đỉnh tín lý của đạo Phật. Chỉ có bộ kinh nầy mới cứu độ được chúng sanh còn tất cả mọi kinh tạng và môn phái khác đều là rơm rác. Sư muốn đưa Nhật Liên Tông lên làm quốc giáo Nhật và chỉ trích gay gắt chính quyền đương thời đến nỗi bị lên án tử hình; nhưng may sau được thoát trong một trường hợp lạ lùng đặc biệt. Khuynh hướng độc tôn của sư Nhật Liên đã tạo ra một thời kỳ dao động. Các môn phái chống báng nhau làm ô nhiễm và nghèo đi một chặng đường trong Phật giáo sử Nhật Bản, nhất là thời kỳ giới Samurai thuộc phái Thần Đạo và Thiền Tông mở đường "phản công" cho rằng: Tịnh Độ Tông là một pháp môn dễ dãi, thiếu tri thức văn chương hay triết lý và chẳng phải là một dòng nhánh của Phật giáo chân truyền. Do vậy, Tịnh Độ Tông chỉ để dành cho đại chúng bình dân ít học, kẻ hạ căn và ông già bà lão "cầu vãng sanh" và chấp trụ vào tha lực A Di Đà như một sự thoát ly, chạy trốn chính mình và hiện thực mà chẳng cần quán niệm hay động não ... (!)

Tuy nhiên, mọi hình thức cực đoan thể hiện qua lối suy nghĩ mang tính cố chấp và vọng động không có lý do tồn tại trong đạo Phật. Đại chúng Nhật Bản đã nhận định tương đối công bằng, rằng: "Mật Tông và Thiên Thai Tông thích hợp với hàng quý phái; Thiền Tông thích hợp với giới Võ Sĩ đạo; và Tịnh Độ Tông thích hợp với giới bình dân. Vì giới bình dân chiếm đa số trong xã hội nên Tịnh Độ Tông thường được nhắc đến nhiều hơn, quảng bá rộng rãi hơn, gây ra cảm giác bề mặt sai lạc như pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh là cao hơn các pháp môn khác trong đạo Phật. Thế nhưng thuốc hay đâu phải vì nhãn hiệu lớn nhỏ, quí tiện mà vì chữa được bệnh; pháp hay đâu phải vì tiếng đồn cao thấp mà vì hợp với căn tánh, giúp người theo có được tâm từ bi và an lạc."

Mỗi thế giới Phật có một cõi Tịnh Độ. Có hàng hà sa số Phật nên cũng có vô số cõi Tịnh Độ. Tịnh Độ chẳng phải là một Vùng Đất Hứa để khi chết mới được về. Tịnh Độ là một cõi bản nhiên an lạc, như như thường tại trong chính mỗi sinh thể. Cõi Tịnh Độ của thế giới Ta Bà nầy có đức Phật A Di Đà thọ chứng. Hai bên có bồ tát Đại Thế Chí tượng trưng cho sự khai mở trí tuệ chỉ đường giải thoát và bồ tát Quán Thế Âm là biểu tượng của năng lực thần kỳ cứu nguy, giải nạn. Đức Quán Thế Âm cũng là bồ tát Quán Tự Tại, nghĩa là năng lực cứu nguy, diệt khổ ở tự trong ta.

Chết vãng sanh?

Đối với Phật giáo thì Chết là một hình thức biến tướng xẩy ra trong từng sát na từ vô thủy đến vô chung qua 3 cấp độ: Vi biến, tiểu biến hệ biến.

Vi biến là trạng thái đổi thay xẩy ra trong chớp mắt như thoáng vui, thoáng buồn, thoáng yêu, thoáng ghét (như: Yêu là chết ở trong lòng một ít - XD).

Tiểu biến là hình thái thay đổi xảy ra trong một giai đoạn ngắn dài nào đó như người khỏe mạnh, giàu có biến thành người bệnh tật, khốn khổ sau một tai nạn hay biến cố (như: Thi đỗ hàn Nho thành quan trạng; mắc lừa Từ Hải chịu vong thân - NT).

Hệ biến là sự biến đổi cả một hệ thống. Đối với con người là hệ thống tuần hoàn, là sự sống chết, là hình thái biến tướng từ kiếp nầy sang kiếp khác (như: Chết là hết, hết đau, hết khổ. Nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu - LĐ)

Hình thức biểu hiện có khác nhau, nhưng khuynh hướng căn bản của tất cả các pháp môn đều hướng tới một mục đích chính: Chết về đâu và giải quyết cái chết như thế nào để sau cái chết, nếu có chăng một đời sống mới thì phải khá hay huy hoàng hơn đời sống cũ.

Pháp môn niệm Phật thì đặt trên một niềm tin nhất quán và tuyệt đối rằng, con người ta khi sắp chết, nếu nhất tâm niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà thì người đó sẽ được Phật Di Đà và thánh chúng tiếp dẫn về cõi Tây Phương Cực Lạc. Nơi đây họ được sống trong cảnh thần tiên của thế giới Cực Lạc và tiếp tục tu học, tìm cầu nẻo đạo thoát khỏi luân hồi sinh tử. Kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, hay Tịnh Độ Vãng Sanh Luận của bồ tát Thế thân là những kinh điển xương sống của pháp môn Tịnh Độ. Nhìn chung, đó là những áng văn tả cảnh (cảnh trời Cực Lạc) tuyệt vời. Vàng ngọc, châu báu vô giá của trần gian cũng chỉ là đất cát tầm thường nơi miền Cực Lạc. Cuộc sống thần tiên an lạc trong biển hào quang hóa độ của đức Phật A Di Đà và thánh chúng thật là một nơi an nghĩ tuyệt diệu cho kiếp đời sinh diệt tối tăm. Nhiều Phật tử vẫn mường tượng và chấp chặt cảnh Tây Phương Cực Lạc là vùng đất hứa. Nhưng chỉ cần một khởi niệm chấp chặt thì hành giả niệm Phật đã xa rời Chân Tướng; trong khi Chân Tướng đó mới chính là cảnh trời Cực Lạc Tây Phương.

Thật ra, Niết Bàn, Thiên Đường hay Miền Cực Lạc cũng chỉ là những sản phẩm của sự ước mơ. Đời sống mà không có sự ước mơ cũng như đất không có hoa và ước mơ quá xa vời với hiện thực cuộc sống thì cũng như có hoa mà không đất. Đức Phật thường sử dụng biểu tượng ước mơ như những thí dụ làm phương tiện giáo hóa. Thuốc để chữa bệnh không phải là sự lành bệnh mà phải cần 3 yếu tố: Thầy giỏi, thuốc hay và người bệnh thực hành uống thuốc đúng theo lời chỉ dẫn.

Sự sống chết xảy ra thường xuyên và liên tục ở một trong ba cấp độ vừa trình bày ở trên. Cái chết nầy là cánh cửa cuối cùng mở ra cho sự sống kia bắt đầu: Nụ cuời hoan hỷ sau khi sự hiểu lầm được giải tỏa, anh học trò nghèo vừa thi đỗ đại khoa, một sinh thể vừa mới được sinh ra... đều là những biểu hiện chết sống diễn ra liên tu bất tận ở mọi cấp độ. Nếu tín lý Đại Thừa xây dựng niềm tin có đức A Di Đà dang tay tiếp dẫn thì không phải chờ đến khi hệ biến (từ trần) mới tới đón mà phải biết tìm cầu Ngài ở ngay chính ta trong chính cái sát na đương niệm hiện tiền nầy. Niệm "lục đại tự" - Nam Mô A Di Đà Phật - thường xuyên là cốt giúp giữ lòng thanh tịnh để có đủ khoảng trống cần thiết tâm thức của chính hành giả (nhất tâm bất loạn) mà an trú trong hiện tại, không sợ hãi khổ đau, xem nụ cười lành, nhìn chỗ đứng an lạc, được sinh thuận tử an... chính là cõi Tịnh Độ giữa trần gian gió bụi nầy chứ không phải là những ảo vọng "viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn Tam thế chư Phật" hay dựa vào tha lực của thế giới Cực Lạc hữu vi - hoàn toàn trái ngược với tinh thần cốt tủy của Phật giáo - để van vỉ, cầu xin mới thật sự là được vãng sanh Tịnh Độ.

Một thời khắc đại định của vị thiền sư Hoa Nghiêm Tông , một hành động buông dao của người đồ tể và một câu niệm Phật A Di Đà của song thân sư cô Tuệ Nhi đều có năng lực giữ cho nhất tâm bất loạn. Một bài triết lý xa xôi của môn đồ Socrate trên đỉnh núi Pyrenee chắc gì có tác dụng làm lắng đọng tâm tư cao hơn một tiếng hát tiều phu trên triền núi Trường Sơn mây khói. Vạn pháp bình đẳng, không phân biệt hình thức phương tiện hay hoàn cảnh xuất thân. Mọi sự chuyển đổi pháp môn không ứng hợp với căn cơ của hành giả sẽ làm cho "đa tâm bấn loạn". Sự câu nệ pháp môn, do đó, là biểu hiện một tinh thần cực đoan phi Phật giáo.

Nói gọn lại

Đạo Phật hay bất cứ một hình thức tôn giáo nào khác sẽ không có lý do ra đời và có điều kiện tồn tại, phát huy nếu không đóng một vai trò đáp ứng khát vọng tâm linh mới mẽ và tích cực trong một khung cảnh nhân văn nhất định nào đó. Tại một xã hội đa giáo, đa thần như Ấn Độ thời cổ nếu thiếu đi một con đường trí tuệ khác biệt, độc sáng và cao rộng hơn những hệ thống đức tin và lý thuyết tôn giáo đã có mặt lâu đời ở xứ nầy như Bà La Môn, Ấn Độ giáo thì bất cứ một hệ thống tư tưởng tâm linh nào cũng chỉ là một sự lập lại dễ quên, chóng tàn. Hơn ba nghìn năm, trước khi đức Phật ra đời, dọc con sông thiêng Hằng Hà từ Hy Mã Lạp Sơn xuống tận biển đã có hằng vạn hành giả, pháp môn, hệ phái tôn giáo hành đạo theo cách riêng của mình. Trong tác phẩm Những Dấu Ấn Tâm Linh Hằng Hà... của Krishna Kanvatar, hình ảnh Phật giáo nổi lên nhờ sự giác ngộ Trung Đạo của đức Thích Ca giữa hai bờ đối đãi cực đoan của Bà La Môn giáo, Bái Vật giáo và Phiếm Thần giáo... thời bấy giờ. Cũng theo Kanvatar thì nếu thiếu đi cái xương sống là sự minh triết trí tuệ mang ánh sáng khai phóng, để chỉ lập lại hay cải biên những nguyên tắc, lý thuyết cổ xưa của Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư... thì đức Phật và đạo Phật về sau cũng đã chìm khuất trong những khu rừng của hàng nghìn đạo sĩ, danh môn và tông phái của Ấn Độ từ hơn hai nghìn năm trước.

Đạo Phật là hình ảnh của một dòng sông tư tưởng và tâm linh không thối chuyển. Tuy nhiên, mỗi thời đại, mỗi khung cảnh quốc gia và xã hội đều có những vấn đề và yêu cầu riêng khác nhau. Trong xã hội hiện tại, nhất là với bối cảnh đặc biệt của người Việt Nam trong cũng như ngoài nước, đạo Phật đang có khuynh hướng tiến ra ngoài và vượt lên trên một hình thức thờ cúng, bái vọng mang tính chất "xưa bày nay làm" mang màu sắc thần thánh mặc khải vốn là bản chất của các tôn giáo. Sự phát triển của đạo Phật trong khung cảnh toàn cầu hóa, đặc biệt là tại các nước Âu Mỹ ngày nay, đậm nét tri thức và trí tuệ hơn là chỉ có niềm tin tôn giáo thuần túy. Sự đa dạng và phong phú của các pháp môn trong đạo Phật đã đáp ứng được những nhu cầu hiểu biết và tâm linh từ hàng bình dân đến lớp học giả, trí thức. Bởi vậy, thái độ khư khư chấp chặt vào một pháp môn phương tiện là vô tình bỏ quên "viên ngọc trong chéo áo" để cam chịu nghèo nàn, lu thu cuối bãi đầu ghềnh giữa một biển trời mênh mông lộng gió! Đạo Phật phát triển, Bắc truyền (Đại thừa) của Việt Nam đã mềm dẽo và tích cực phát huy tinh thần phước huệ tương hành, thiền tịnh song tu.

Dẫu là hiện thực hay hư cấu, kẻ viết những dòng nầy cũng xin đảnh lễ sư cô Thích Nữ Tuệ Nhi, người đã đưa ra vấn đề liên quan đến khía cạnh hoằng pháp độ sanh của đạo Phật thời hiện đại. Sự phát huy trí tuệ trong tinh thần thanh tịnh và tinh tấn của Phật giáo có khả năng mở ra vạn nẻo quanh co của lý luận và tranh biện. Nhưng cuối cùng vẫn gặp nhau ở một điểm chung là Sự Thật tỏa sáng qua nụ cười giải thoát, an lạc. Tín tâm chân thực bao giờ cũng là biểu tượng của đóa sen thơm ngát trong lòng người Phật tử.

Nếu có những Phật tử xuất gia như sư cô Tuệ Nhi, nửa đường nhìn lại, để từ đó thấy được mình và tìm ra một pháp môn thích hợp với căn cơ của riêng cá nhân mình mà đi tiếp thì cũng có những vị "nửa đường bỏ cuộc... chơi!". Nhắc đến trường hợp sư cô Tuệ Nhi không khỏi làm người ta liên tưởng tới trường hợp của cựu Đại đức Thích Huệ Nhật. Trước khi tự thú nhận là "xù Phật theo Chúa" để trở thành một Mục sư - mục sư Nguyễn Huệ Nhật - thầy Huệ Nhật đã viết trong tác phẩm tự truyện "Từ Áo Cà Sa Đến Thập Tự Giá"[2] rằng, lý thuyết Phật giáo quá nhiêu khê, với nhiều góc khuất tối tăm khó hiểu; thậm chí có những tín lý mâu thuẫn nhau. Quả thật, đây cũng là một lời tự thú chân thành nên rất đáng trân trọng. Nếu nhìn qua lăng kính của lý thuyết thần học phương Tây thì nhị nguyên luận hình thức làm sao lý giải rạch ròi khái niệm "Sắc chẳng khác Không; Không chẳng khác Sắc. Sắc tức là Không; Không tức là Sắc..." của tư tưởng Kim Cương Bát Nhã nhất nguyên luận thể tánh cho được. Ông Xã Xệ làng ta vừa lên tỉnh lần đầu, dạo phố bị lạc đường, cho là những con đường làm sai. Những con đường và ông Xã Xệ không có bên nào sai cả; nhưng hai bên đã lạc nhau vì tri thức và thực tại không có cùng mẫu số nhất quán song hành.

Cũng tương tự như thế, pháp môn là phương tiện nên đừng để rơi vào thế Xã Xệ và con đường mà tội.

Rancho Seco, mùa Phật Đản 2011
Trần Kiêm Đoàn


[1] http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2010/04/loi-tu-thu-cua-mot-su-co/
[2] http://www.giaodiemonline.com/thuvien/debate/casacross-tkd.htm 

Những trao đổi pháp đàm 
sau khi đọc bài "Nhân đọc lời tự thú của một Sư Cô" 
LTS : Bài "Nhân đọc lời tự thú của một Sư Cô" của Trần Kiêm Đoàn 
đã được chuyển đến  diễn đàn Phật Tử "Người Cư Sĩ".
 Xin ghi lại , sau đây, những phát biểu, cảm nghĩ của các thành viên diễn đàn sau khi đọc bài.
(Những lời tóm lược của các phát biểu là do BBT thêm vào, không phải của người phát biểu).
Pháp Thân :

(Tóm lược lời phát biểu : Sư cô Tuệ Nhi khủng khoảng tinh thần về niềm tin của mình đối với Đạo Phật. Ông Batchelor bỏ tu vì không đạt niềm tin chết sẽ có tái sinh. Vấn đề : Làm sao có niềm tin vững chắc ? Thiền có giúp tăng trưởng niềm tin hay không ? )

Sau khi đọc xong bài "Lời Tự Thú Của Một Sư Cô", Pháp Thân cảm tưởng sư cô Tuê Nhi phân vân hoặc khủng hoảng tinh thần về niềm tin của mình đối với Đạo Phật.  Lý dó hình như là  sư cô nghiên cứu và tu tập Đạo Phật nhiều năm và đạt được 4 bằng đại học, 2 bằng tiến sĩ, v.v.- nhưng cảm tưởng niềm tin của mình không bằng hai người cha mẹ "rất ít học" và chỉ niệm Phật.

Gần đây Pháp Thân có đọc cuốn sách "Confession of a Buddhist Atheist" của Stephen Batchelor.  http://www.amazon.com/Confession-Buddhist-Atheist-Stephen-Batchelor/dp/0385527063.

Ông Batchelor sang Tây Tạng và xuất gia lúc ngoài 20 tuổi.  Sau khi gần 20 đi đương tu tập ông Batchelor "nửa đường bỏ cuộc chơi."  Trong sách lý do chính ông Batchelor đưa ra là ông không đạt được niềm tin quan trọng nhất trong Phật giáo - chết sẽ có tái sinh (reincarnation).  Ông nói có nhiều lần tranh luận với những thầy Tây Tạng về đề tài này - nhưng cuối cùng ông không thỏa mãn với những lời giải thích.

Pháp Thân thấy bài của sư cô Tuệ Nhị có điểm chung với sách của ông Batchelor - là sau khi nhiều năm tu tập hai người cảm thấy niềm tin của mình không được mạnh lắm.

Pháp Thân xin đưa lên một đề tài và xin ý kiến và hướng dẫn.  Trong Đạo Phật mình phải tu tập như thế nào mới có được một niềm tin vững chắc - đặc biệt ngày nay khoa học giải thích được rất nhiều vấn đế?   Tập thiền có giúp mình có niềm tin vững không?  Pháp Thân nghĩ là nếu mình tập thiền và có những kết quả giống như trong kinh dạy (breakthrough - thấy được vô thường) thì sẽ giúp mình rất nhiều có một niềm tin để đi hết cuộc chơi.

Xin kính chào

Pháp Thân Ngô Việt

Nguyên Phước :

(Tóm lược lời phát biểu : Sư Cô Tuệ Nhi và của ông Batchelor có những điểm khác nhau : 
- Sư cô thấy con đường "niệm Phật" là hay nhất. 
- Ông Batchelor bỏ tu vì không đạt được niềm tin, theo ông quan trọng nhất trong PG, là tái sinh, luân hồi.
"Tái sinh", đối với NP, 1) là một điều "bất khả tư nghì", 2) không phải là điều quan trọng trong đạo Phật; có nghĩa là mình có thể là Phật tử mà không tin vào "tái sinh", miễn là đi theo con đường mà đức Phật đã vạch ra.)

Việt và các đạo hữu thân mến,

Theo NP, hai trường hợp của Sư Cô Tuệ Nhi (nếu có thật) và của ông Batchelor có những điểm khác nhau :

- Sư Cô sau bao nhiêu năm tu học, cảm thấy con đường "niệm Phật" là hay nhất, theo gương cha mẹ mình, chỉ niệm Phật mà được vãng sanh cõi Tịnh Độ (nhưng biết đâu là họ được vãng sanh?). Như vậy Cô sẽ chọn "niệm Phật", phù hợp với căn cơ mình hơn. Đâu có gì là vấn đề?

- Ông Batchelor bỏ tu vì không đạt được niềm tin, theo ông quan trọng nhất trong PG, là tái sinh, luân hồi.

Nhưng thật ra, "tái sinh" có phải là điều quan trọng nhất trong đạo Phật không? Sở dĩ PG Tây Tạng coi trọng "tái sinh" (như truyền thống đi tìm tulku của các vị Lạt Ma) là bởi vì "tái sinh" là một điểm nòng cốt trong đạo "bön" bản xứ của Tây Tạng.

Điều phải thấy rõ là thuyết "tái sinh" (samsâra) có trước đạo Phật từ lâu, và cùng với thuyết "tiểu ngã - Đại Ngã" (atman - Brahman), là hai trụ cột của đạo Bà La Môn. Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng lớn khi phủ nhận thuyết "tiểu ngã - Đại Ngã", đồng thời giữ lại thuyết "tái sinh", phổ biến trong văn hóa Ấn Độ thời bấy giờ. Cuộc cách mạng đó chính là thuyết "Vô ngã, duyên khởi", và tính chất bình đẳng, tự lực của sự giải thoát (moksa), điều mà đa số mọi người đều tìm kiếm.

Nếu ông Batchelor không đi tu theo Tây Tạng mà theo Thiền tông, thì ông sẽ nghiệm thấy "tái sinh" không phải là một vấn đề. Hiện tại mới là quan trọng, tin vào "tái sinh" hay phủ định "tái sinh", bàn luận về "tái sinh" chỉ là vọng tưởng.

"Tái sinh", đối với NP, 1) là một điều "bất khả tư nghì", 2) không phải là điều quan trọng trong đạo Phật; có nghĩa là mình có thể là Phật tử mà không tin vào "tái sinh", miễn là đi theo con đường mà đức Phật đã vạch ra.

Bàn rộng hơn về đức tin (về "đức tin trong đạo Phật", NP có viết một bài Việt có thể đọc trên trang NCS), thì trong đạo Phật nguồn gốc, đức tin (saddha) có nghĩa là tin tưởng, như tin vào lời dậy của một vị thầy, lời chỉ bảo của một người dẫn đường (nhưng không một cách tuyệt đối, vô điều kiện, cf. Kinh Kalama). Tin tưởng cần thiết trong bước đầu còn chập chững, nhưng sau đó kiểm chứng, thực nghiệm mới là cốt yếu. Đức Phật đã nói : "Tin ta mà không hiểu ta, tức là phỉ báng ta vậy".

Nhưng sau này, khi đạo Phật trở thành tín ngưỡng, thì đức tin trở thành sùng tín (bhakti), như trong tất cả các tôn giáo khác. Vai trò của đức tin trở thành quan trọng hơn trí tuệ, và đôi khi trở thành chính yếu.

Ngài Long Thụ (Nagarjuna), người dẫn đầu "Tân phái trí tuệ", cũng phải công nhận rằng: "Trí tuệ là con đường khó; đức tin là con đường dễ".

Làm thế nào để có một niềm tin vững chắc? Đức tin thuộc về cảm xúc, nằm nhiều bên bán cầu não phải và phía giữa của não, trong khi lý trí nằm nhiều bên bán cầu trái hơn. Sức mạnh của đức tin ít nhiều là tùy mỗi cá nhân, nhưng cũng có khả năng được trau dồi, nhờ tính chất mềm dẻo (plasticity) của não. Nếu cứ làm lễ 5 lần một ngày như một số tu sĩ, tăng ni hay các tín đồ Hồi giáo, thì chắc hẳn niềm tin đó sẽ mỗi ngày một gia tăng. Đức tin cũng có thể trở thành mãnh liệt sau một dao động tâm lý, như Pascal sau một đêm "bừng sáng", Thánh Paul trên đường đi Damas, Thánh Thérèse Lisieux thấy đức Mẹ xuất hiện, v.v. Nhưng trong Thiền thì NP chưa thấy có sách báo nào nói đến sự củng cố niềm tin do thiền định!

Đa số con người không phải là thông minh, chăm chỉ, không thích lội suối trèo non, mà chỉ mong "hai chữ bình an", nằm dài trên bãi cát. Nghiền ngẫm kinh nhiều thì nhức đầu mỏi mắt, ngồi thiền định lâu thì mỏi gối nhức xương. Chi bằng ê a niệm Phật, lấy niềm tin làm sức mạnh, rồi dần dần cũng thấy tâm an lạc...

Nói cho cùng, mục đích của con người là gì, khi tìm về tâm linh, tôn giáo? Để cái tâm mình đang bị xáo trộn, bất an về những lo lắng, buồn phiền về bản thân mình, hay gia đình, hay thế giới, lo lắng trước bệnh tật, tuổi già, cái chết một ngày kia sẽ đến... Mỗi người có những vấn đề của mình, có tâm lý của riêng mình, mỗi người phù hợp với một con đường, một đạo giáo. Có người thích suy nghĩ, phân tích, học hỏi, có người thích tập trung trong tĩnh lặng, có người thích tụng niệm, lễ nghi, mỗi người có cách trấn an của mình, cũng như người thích hội họa, người thích âm nhạc, người thích thể thao, mỗi người mỗi vẻ...

Nói tóm lại, thế nào cũng được, con đường nào cũng được, miễn là phù hợp với bản thân, mang lại bổ ích cho tâm mình, và đừng làm hại người khác!

Về cuối đời, NP nhận thấy rằng giáo phái nào, đạo nào cũng có cái hay của nó, đạo nào cũng dậy con người làm lành, nhằm mang lại hạnh phúc cho mình và cho người. Chỉ có con người mới áp dụng sai quấy, đầu tiên bằng cách chê bai, khinh rẻ rồi mạt thị, đả phá các đạo khác, và như vậy gây nên những nhân xấu, trùng trùng duyên khởi...

Giữa tin tưởng và cuồng tín, có khoảng trống của một trời một vực, và có thể gây nên bao nhiêu hạnh phúc cũng như khổ đau!

Chỉ có một giải pháp là: hãy bao dung đối với nhau.

Thân mến,

NP

Pháp Thân :
(Tóm lược lời phát biểu :
- Con người không có một niềm tin vào cái gì hết và chỉ tin rằng chết là hết sẽ thầy đời mình vô ý nghĩa. 
- Trong Phật giáo có hai cách nhìn:  tương đối và tuyệt đối.)

Xin cảm ơn bác Nguyên Phước giải thích.

Gần đây Việt cũng nghĩ là mỗi tôn giáo có giáo lý riêng, có phương pháp riêng - nhưng mục đích của những tôn giáo, những môn phái nều giống nhau - làm con người bớt khổ, bớt lo lắng, bớt sợ hãi.  (Con người không có một niềm tin vào cái gì hết và chỉ tin rằng chết là hết sẽ thầy đời mình vô ý nghĩa.  Mình cố gắng và tranh đấu với đời để làm gì nếu chết là hết?)  Con người như vậy sẽ thấy bất mãn.

Hôm trước được bác NP giải thích trong Phật giáo có hai cách nhìn:  tương đối và tuyệt đối.  Việt nghĩ nghiên cứu Phật giáo với hai cách nhìn này rất hay.  Theo Việt nghĩ, mình hướng về tuyệt đối để đi đến tương đối.  Cũng giống như một người đang sống ở một vùng khí hậu nóng nực.  Có một người hướng dẫn muốn hết nóng thì cứ nhắm về hướng Bác mà đi.  Người nào theo lời này và  hướng về phía Bắc sớm muộn gì sẽ đến nơi mát và hết nóng nực.  Nhưng nếu người đó hỏi đi hết đường về phía Bắc sẽ tới đâu?  Bắc cực (North Pole) như thế nào, ở đó có ai ở, v.v.  Theo Việt nghĩ  những vấn đề này không quan trọng lắm.  Mục đích của một người đang nóng nực chỉ mong muốn về vùng mát - không phải đến Bắc cực.  Đến Bắc cực lạnh quá chết thì sao?

Thân mến,

Pháp Thân Việt

Tuệ Thiện:

(Tóm lược lời phát biểu : Việc học phật mở ra ba khía cạnh :
Thứ nhất là ta đi vào những nguyên lý mà PG đưa ra về con người, những nguyên lý giúp con người vượt thoát đau khổ,thoát khỏi  luân hồi.
Khía cạnh thứ hai là tìm hiểu tự thân Phật giáo hay lịch sử PG 
Khía cạnh thứ ba của việc học Phật là nghiên cứu áp dụng PG vào cuộc sống hiện đại 
Trong Phật giáo muốn tu cho đúng phải dùng Pháp Học để hổ trợ cho Pháp Hành. Dùng Pháp Hành để kiểm chứng pháp học. Dùng Pháp Thành để chứng nghiệm cả Pháp Học và Pháp Hành. 
Trí tuệ trong pháp học là sự hiểu biết đúng phương cách để đạt tới mục đích : trong đời sống bình thường mục đích phải chăng là hạnh phúc, là tâm an, thân lạc là điều mà tất cả mọi người đều mong muốn; 
trong Đạo  mục đích là giải thoát Tâm khỏi những ràng buộc chấp thủ, những phiền nảo khổ đau.
Trí tuệ trong pháp hành là sự ứng xử của tâm trước thực tại hiện tiền để không bị rơi vào tham ái, sân hận hay vô minh ; và sau cùng trong pháp thành Trí Tuệ là sự bừng sáng của Tuệ giác trước sự thật của vạn hữu.)

HỌC PHẬT NGÀY NAY

 Phật học thật là mênh mông như biển cả, như rừng già ; nhưng nếu chúng ta biết giới hạn sự tìm hiễu chỉ " như nắm lá trong bàn tay của Đức Phật " thì chúng ta có hy vọng nếm được " vị mặn của giáo pháp " tức hương vị của sự giải thoát.

 Việc học phật mở ra ba khía cạnh :

  Thứ nhất là ta đi vào những nguyên lý mà PG đưa ra về con người, về thân phận con người, về tâm lý học con người, những nguyên lý giúp con người vượt thoát khỏi sự đau khổ, vượt thoát khỏi sự luân hồi. Đó là những giáo lý căn bản của đạo Phật.

 Khía cạnh thứ hai là tìm hiểu tự thân Phật giáo hay lịch sử PG trong đó bao gồm :
- cuộc đời của Đức Phật và các vị Đại đệ tử,
- sinh hoạt của giáo hội tăng già, làm sao quí vị có thể sống an vui trong sự hoà thuận trên dưới (lục hoà)
- lịch sử kết tập tam tạng : Kinh, Luật, Luận
- sự chia rẽ thành bộ phái sau khi Phật nhập diệt
- lịch sử Phật giáo ở tại các nước,
- sự suy tàn của PG ở tại các quốc gia như Ấn Độ thủơ xưa, Đại Hàn hiện nay ; tại sao nó suy tàn ở quốc gia này mà không suy tàn ở quốc gia khác ?
- sự xuất hiện và hình thành của PG Đại Thừa
- lịch sử các tông phái Thiền tông, Tịnh Độ tông, Mật tông v.v… 

Khía cạnh thứ ba của việc học Phật là nghiên cứu áp dụng PG vào cuộc sống hiện đại làm sao để giúp con người tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống đầy sự cám giỗ, đầy những mâu thuẫn, bức xúc, xung động (stress) ; làm sao để giúp con người tìm được sự hài hoà thân tâm của chính mình, sự hài hoà giữa mình và người khác trong gia đình, trong cộng đồng xã hội, hài hoà với thiên nhiên. Đây là sự thách đố của người trí thức phật tử khi chúng ta nhìn thấy Phật giáo suy tàn tại các quốc gia mà trong đó cuộc sống con người không hơn con thú ; PG đã để cho những chủ nghĩa bạo tàn sắt máu phát triển trên vùng đất hiện diện của chính mình, đã để cho hàng triệu người bị tàn sát trên quê hương mình. Đây là sự thất bại của người trí thức phật tử trong quá khứ tại các nước như Ấn Độ, Miến Điện, Campuchia, Viêt Nam, Trung Quốc… đã không biết áp dụng những nguyên lý PG vào việc tổ chức xã hội.Người trí thức Tây Phương đã biết áp dụng những nguyên tắc Công Bình, Bác ái của Thiên Chúa Giáo vào đời sống xã hội khiến xã hội của họ phát triển và những giá trị nhân bản được quí trọng.
 Ngược lại phải chăng sự tiến bộ của Nhật Bản và Đài Loan là sự thành công của các thiền sư Nhật Bản, của các người trí thức phật tử tại các nước ấy? Nên nhớ là Nhật Bản là một quốc gia có một đảng phái chính trị phật giáo khá mạnh. Đây là chỗ áp dụng của PG vào cuộc đời, đây là diệu dụng của thiền tông, của vai trò người cư sĩ, không nên áp đặt cuộc sống tự viện, kỹ luật nhà chùa lên người cư sĩ ; họ đã đau khổ, bận rộn quá nhiều vì cuộc sống hiện đại.Phải suy tư tìm ra sự quân bình giữa 2 khuynh hướng tu tập là xuất thế và nhập thế. Giáo hội nước nào thành công trong việc thực hiện 2 cách tu này giáo hội đó sẽ giúp ích rất nhiều cho quốc gia , xã hội để đẩy mạnh sự tiến bộ.

Ngoài ra trong PG, sự học hỏi là để mỡ mang trí tuệ và người ta thường nói tới ba loại trí tuệ : Trí văn, Trí tư và Trí tu.

1- TRÍ VĂN: là sự hiểu biết do HỌC HỎI. Tôi nghĩ là ngày nay chúng ta có nhiều phương tiện để học phật hơn là cách đây chừng trăm năm. Vào thời Đức Phật phương tiện duy nhất là nghe trực tiếp lời giảng của Đức Phật vì vậy được gọi là trí văn, vì văn có nghĩa là nghe. Ngày nay chúng ta có tất cả kinh điển, sách báo, băng audio, vidéo, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, thậm chí có cả paltalk. Chỉ cần một vài bấm tay là có cả một thư viện phật học trước mắt.

2- TRÍ TƯ : là sự hiểu biết do SUY NGHĨ. Trong tất cả những nguồn tài liệu trên, có cái đúng có cái sai ; đừng vội tin, cũng đừng vội bỏ khi có điều trái ngược với quan kiến của mình. Như vậy phải biết chọn lựa căn cứ vào những nguồn tài liệu đứng đắn nhất. Phải căn cứ vào Chánh Tạng, phải biết suy nghĩ, đối chiếu với những nghiên cứu có tính cách khoa học. Nếu còn nghi vấn phải tìm gặp các nhà thiện trí khác để hội thoại với nhau.
Học phải hỏi, hỏi để hiểu, hiểu để nhớ, nhớ để hành. Trong sự học hỏi, PG đưa ra bốn phương pháp gọi là TỨ VÔ NGẠI GIẢI :

a- Từ vô ngại : là sự hiểu biết thông suốt không trở ngại về danh từ và có thể diễn tả, giảng giải nó một cách dễ dàng. 
Những danh từ phật học thường là chữ Hán-Việt, phải biết chuyển đối thành những từ ngữ thông dụng đương đại.
Thí dụ : nói về Ngũ Uẩn tức là 5 yếu tố cấu tạo thành con người: Sắc, Thọ, Tưỡng, Hành, Thức. Ta có thể chuyển đổi: Sắc= thân thể, vật chất/ Thọ= cảm giác/ Tưỡng= tri giác/ Hành= tác ý hành động, tư tưỡng/ Thức= tâm, ý.
 Muốn hiểu chúng nhiều khi ta phải đối chiếu với những từ ngữ trong các ngôn ngữ khác như Pali, Sanskrit,Anh văn , Pháp văn...
 Đôi khi ta phải đi tìm những thành phần cấu tạo của chúng, những chi pháp của chúng, xem chúng có mấy loại...
 Đôi khi phải tìm những từ  đồng nghĩa hoặc tương đương 
Thí dụ : Nhãn = mắt = nhãn vật = nhãn căn = nhãn xứ= nhãn giới.
 tuỳ theo ngữ cảnh (contexte) mà chúng được xử dụng khác nhau.
 Đôi khi phải dùng kiến thức khoa học hiện đại để soi sáng chúng chẳng hạn chữ Tưỡng= tri giác= perception , ngày nay khoa học Tâm não hiểu chữ perception như thế nào?Nó có khác với tưỡng tượng không? Nó có khác với nhớ tưỡng không?Phải dùng Khoa học để soi sáng Phật giáo và dùng Phật giáo để soi sáng Khoa học.Liệu chúng ta có
nên giữ lại những dữ kiện phật học xưa đã bị khoa học nhân văn hay khoa học tự nhiên chứng minh là sai?

. Công việc nầy phải nhờ các từ điển (Từ điển đối chiếu Phật ngữ - Phạm hữu Dung).(Phật học từ điển – Đoàn trung Còn, NXB : Phật học tòng thơ 1968) (Từ điển Phật học – Chân Nguyên và Nguyễn tường Bách –NXB : Thuận Hoá – 1999) (Từ điển Phật học Việt Nam –HT Thích Minh Châu – GS Minh Chi) ...v.v. 

 b- Nghĩa vô ngại : là sự thông hiễu về ý nghĩa của danh từ. Phật giáo cho ta bốn chi tiết để định nghĩa một danh từ :
 - đặc tính hoặc bản chất
 - phận sự hay công dụng
 - biểu hiện hay hình dáng
 - nguyên nhân gần hoặc chính.
Thí dụ 1 - định nghĩa Cái ly : là một vật, dùng để đựng nước uống, hình ống, làm bằng chai, nhựa hoặc giấy.
Thí dụ 2 - định nghĩa Tâm : là một thành phần cấu tạo nên con người, có phận sự nhận biết, biểu hiện bằng những trạng thái vui, sướng, buồn đau hay thản nhiên, sanh khởi khi có cảnh.
 c- Pháp vô ngại : là sự thông hiểu về tất cả các pháp (hiện tượng, sự vật) có liên quan tới điều muốn nói tới và biết nó thuộc vào một hệ thống phân loại nào.
Thí dụ : nói về Tâm có 12 cách phân loại khác nhau :
- theo cảnh giới có bốn : tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm vô sắc giới, tâm siêu thế.
- theo giống có 4: thiện, bất thiện, quả, duy tác.
- theo nhân có hai : hữu nhân và vô nhân
- theo nhiệm vụ có 14 v.v…

d- Biện vô ngại : là hiểu biết sự tương quan nhân quả giữa các pháp : cái nào sanh trước, cái nào sanh sau/ cái nào là nhân, cái nào là quả/ cái nào hổ trợ cho nó, cái nào triệt tiêu nó v.v ...sự hiểu biết này đặt sự vật trong tiến trình sinh trụ hoại diệt của nó.Theo PG có 24 điều kiện tương quan giữa các pháp (Duyên Hệ)
 Nói tóm lại Tứ vô ngại giải là sự hiểu biết bách khoa (encyclopédique) về các pháp.

 Với tất cả những hiểu biết trên, chúng ta có được TRÍ TƯ, tức là trí tuệ phân tích, biện giải giúp ta phân biệt được thật giả, thiện  ác, đẹp xấu, chánh tà, bản chất, hiện tượng...

 3- TRÍ TU : Nhưng học phật không phải chỉ nhằm đạt đến mục đích hiểu biết suông. Cho đến một mức độ nào đó ngôn ngữ không diễn tả được hết thực tại. Đôi khi nó còn là một trở ngại ngăn che sự thật. Cũng như chúng ta không thể  thấu hiểu được thế nào là trạng thái AN LẠC mà người phật tử thường hay chúc nhau " thân tâm an lạc ", nếu chúng ta chưa đắc được sơ thiền, An Lạc đối với chúng ta chỉ là một danh từ tục đế. Lúc nầy là lúc phải xử dụng đến TRÍ TU, là trí tuệ trực giác có được do sự luyện tập THIỀN. Đức Phật giải thoát khỏi sinh lão bệnh tử nhờ thiền định, các chư tổ diệt tận được phiền não  cũng nhờ thiền định.

 Thiền là dùng ba khả năng của tâm là TINH TẤN, CHÁNH NIỆM, GIÁC TỈNH để quan sát thân và tâm (hay danh và sắc). Sự quan sát phải thật bén nhạy, tinh khiết,
khách quan đến độ biên giới giữa người quan sát và vật quan sát không còn, cũng giống như sự quan sát của nhà khoa học, trước kính hiển vi hay kính viễn vọng. Từ từ sự quan sát làm hiển lộ những định luật vô thường, khổ não và vô ngã, những định luật đã trói buộc con người vào vòng sanh tử luân hồi. Kết quả của Thiền là sự mỡ mang trí tuệ để khám phá những định luật chi phối thân và tâm để nhìn thấy bản chất thật sự của vạn hữu. Điều mà người ta gọi là CHỨNG NGỘ, GIÃI THOÁT. Phật giáo là khoa học thực nghiệm về tâm linh. 

 Ba tiến trình Trí văn, Trí tư và Trí tu đều được xử dụng bởi các nhà khoa học hiện đại vì mọi khoa học đều phải bắt đầu bằng sự quan sát, sau đó các nhà khoa học đi đến sự suy nghĩ, nhận xét để mô tả và phân loại các hiện tượng. Họ phải xem lại tất cả những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học khác về vấn đề đang nghiên cứu(trí văn) để đưa ra một giả thuyết của riêng họ và sau cùng là đưa giả thuyết đó vào phòng thí nghiệm để kiểm chứng. Sau nhiều lần kiểm chứng mà kết quả đạt được vẫn không thay đổi thì kể như giả thuyết trên được chứng nghiệm. Cũng như một hành giả chứng nghiệm được nhiều lần một trạng thái tâm mà mình đã biết qua, trong kinh sách.

 Tuy nhiên sự khác biệt với PG là đối tượng nghiên cứu của khoa học là vật chất như những tinh tú thiên hà vĩ đại hay những tế bào, nguyên tử và những thành phần vi tiểu của nguyên tử. Chỉ có ngành Tâm lý Học hoặc Khoa học Tâm Não (neuroscience) là có ít nhiều điểm chung với đối tượng của PG. Vả lại mục đích của khoa học là kiến thức, hiểu biết, là phát minh phát kiến để ứng dụng vào đời sống hầu kiếm lợi nhuận ; trong khi mục đích sự tu học của phật giáo là sự giải thoát khỏi khổ đau và sanh tử luân hồi.
 Như vậy kết quả của sự tu học phải nhằm đi đến TRÍ TUỆ và trí tuệ trong PG phải là trí tuệ có khả năng đoạn trừ đau khổ, khả năng đâm thủng được vô minh để cuối cùng đưa đến giải thoát.

 Để kết luận trong Phật giáo muốn tu cho đúng phải dùng Pháp Học để hổ trợ cho Pháp Hành. Dùng Pháp Hành để kiểm chứng pháp học. Dùng Pháp Thành để chứng nghiệm cả Pháp Học và Pháp Hành. Trí tuệ trong pháp học là sự hiểu biết đúng phương cách để đạt tới mục đích : trong đời sống bình thường mục đích phải chăng là hạnh phúc, là tâm an, thân lạc là điều mà tất cả mọi người đều mong muốn; trong Đạo  mục đích là giải thoát Tâm khỏi những ràng buộc chấp thủ, những phiền nảo khổ đau.Trí tuệ trong pháp hành là sự ứng xử của tâm trước thực tại hiện tiền để không bị rơi vào tham ái, sân hận hay vô minh ; và sau cùng trong pháp thành Trí Tuệ là sự bừng sáng của Tuệ giác trước sự thật của vạn hữu.

Tuệ Thiện NGUYỄN Tối Thiện 
Hè/2010
 

Pháp Thân:

(Tóm lược:
- xin hỏi về Pháp Hành và Pháp Thành 
- nói về kinh nghiệm tu Thiền)

Cảm ơn DH Tuệ Thiện viết một bài thật quý báu hướng dẫn cách nào cho mình có một niềm tin vào Phật giáo vững chắc.  Pháp Thân thấy lời khuyên cuối trong bài thật hay - ' dùng Pháp Học để hổ trợ cho Pháp Hành, và dùng Pháp Hành để kiểm chứng pháp học.  Dùng Pháp Thành để chứng nghiệm cả Pháp Học và Pháp Hành. '

Mấy hôm nay Pháp Thân có duyên lành được nhiều sự hướng dẫn của nhiều người về mặt Pháp Học.  Gần đây Pháp Thân bắt đầu Pháp Hành (tập thiền).  Hôm nay xin hỏi về Pháp Hành và Pháp Thành một chút.

Gần đây Pháp Thân tập thiền một ngày 2-3 lần - mỗi lần 20-30 phút.  Tập thiền theo cách theo dỏi hơi thở.  Thở vô biết mình thở vô, thở ra mình biết mình thở ra, ngắn, dài, v.v.

Hôm trước, Pháp Thân bắt đầu thầy ánh sáng trong lúc ngồi thiền.  Lúc đâu thấy hơi sợ nên mỡ mắt ra.  Lúc sau này mỗi lần thiền sau khi 10 phút là thấy ánh sáng nên cũng quen đi.

Hôm qua có một thay đổi hơi lạ.  Hơi khó diễn tã - sau khi 30 phút ngồi thiền Pháp Thân cảm tưởng tâm mình bắt đâu có tốc độ - (velocity) lúc đầu chậm chậm - càng lúc càng nhanh.  Ngay lúc đó cái chuông kêu.  Không biết đây có phải là chuyện bình thường không ?  Thấy ánh sáng và cảm tưởng tâm mình bắt đầu ' bay ' nhanh ?  Xin được hướng dẫn để tập thiền đúng đường.

Xin gởi Diễn Đàn vài câu thơ :

Phận người trải nghiệm nhiều buồn phiền.
Phật dạy - mỉm cười, bình thản, thiền.
Bão tố - vô thường - cũng sẽ biến.
Ngộ Không tỉnh thức, về nơi thiên.

Pháp Thân Ngô Việt

Tuệ Thiện:

(Tóm lược : - giai đoạn đầu tu thiền phải có 1 thiền sư hướng dẫn)

ĐH Pháp Thân mến,

Tôi không biết là đạo hữu hành thiền theo phương pháp nào , vì thiền cũng có rất nhiều phương pháp. Thành ra theo tôi giai đoạn đầu phảỉ có 1 thiền sư hướng  dẫn cho đến khi nào vị thầy thấy ĐH đủ lông đủ cánh có thể thiền 1 mình mà không đi lạc, chừng đó ĐH có thể tự mình phát triển Trí Vô Sư một cách vững chắc.
Thân,
Tuệ Thiện

Pháp Thân:

(Tóm lược : - tu thiền theo tài liệu trên internet)

http://www.cattrang.org/phathoc/niemhoitho.htm

Gần đây Pháp Thân tập thiền theo hướng dẫn trong bài ở link này.  Trước đây Pháp Thân cũng có đi vài khóa tu - và cũng được hướng dẫn tương đối giống như bài của Thầy Tâm Thiện - theo dỏi hơi thở.  Hình như Thầy Thích Thanh Từ cũng dạy thiền bằng cách theo dỏi hơi thở (qua những video trên YouTube mà Pháp Thân được xem).

Chỉ điều là lúc trước Pháp Thân tầp một thời gian ngắn rồi ngưng.   Nhưng mấy tuần gần đây  thì Pháp Thân châm chỉ hơn.

Thân mến,

Pháp Thân Ngô Việt

Tuệ Thiện
(Tóm lược : - không nên tu thiền qua sách vở)

Theo tôi , không nên thiền qua sách vở hoặc you tube.
Thân
Tuệ Thiện


[1] Trích đăng từ : http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2010/04/loi-tu-thu-cua-mot-su-co/

Lời Tự Thú Của Một Sư Cô .
Đăng ngày 22 04 2010 

Tôi là Thích nữ Tuệ Nhi xuất gia tu hành năm 17 tuổi. Lứa tuổi đầy năng động. Sẵn thông minh nhạy cảm tôi theo đuổi sự học hành và được Sư phụ trợ duyên cho ăn học. Sau nhiều năm vừa tu vừa học tôi đã đạt được 4 bằng cấp đại học và tự mãn rằng mình có kiến thức học vị thế gian và cả Phật pháp có thể giúp ích cho Tín đồ.

Cha tôi tên Lại văn Từ một người ít học lại là người Tàu ở Chợ Lớn. Công việc của ông là buôn bán đồ phế thải. Hàng ngày ông bôn ba khắp nơi để thu nhặt những đồ đạc người ta không dùng và bán đi để nuôi sống gia đình.

Phước may cho ông gần cuối đời có người mách bảo phương pháp tu hành niệm Phật. Ông thật thà chất phát nghe tin theo và làm một bàn thờ tại nhà để ngày ngày niệm Phật cầu vãng sanh. Mẹ tôi cũng thế.

Bất ngờ một ngày nọ khi ông ở lứa tuổi 75. Ông tự tuyên bố với gia đình ngày 14 tháng 7 ông sẽ vãng sanh Cực Lạc. Mọi người trong nhà bán tin bán nghi.

Trước khi vãng sanh ông bị một cơn bệnh nặng phải đi cấp cứu tại bệnh viện. Nhưng đến ngày 11 tháng 7 năm đó. Ông bình tĩnh xin được xuất viện về nhà.

Ông hỏi gia đình hôm nay là ngày mấy? Gia đình trả lời là ngày 11 tháng 7. Ông nói ba ngày nữa ba sẽ vãng sanh . Đức Phật đã báo trước rồi. Nấu cho nị ba trái khoai lang cúng Phật. Đúng ngày đấy ông an nhiên niệm Phật ra đi một cách êm nhẹ có đầy đủ ân chứng vãng sanh. Mẹ tôi cũng được vãng sanh sau đó vài năm.

Tôi thấy cha mẹ tôi rất ít học nhưng tin Phật pháp chỉ niệm Phật mà được giải thoát. Nhìn lại tôi đã 50 mươi tuổi học thức đầy đủ, toàn văn bằng Tiến sĩ Đại học nhưng tôi không cảm thấy mình có thể giải thoát bằng cách nào?

Bằng cấp tôi đạt được chỉ để giúp truyền đạt kiến thức thế gian. Quả thực không có thực dụng cho sự nghiệp thành tựu trí tuệ thực chứng. Tôi cảm thấy cha mẹ tôi thực sự đã phát minh được trí huệ qua quá trình niệm Phật mà tôi nghĩ quá đơn giản.

Bây giờ tôi mới liễu ngộ được sự thật là học vấn của tôi chỉ là một hình thức vọng tưởng, tôi đã nhét vào đầu những học vị tiến sĩ bằng cấp cao học này nọ chỉ là để thỏa mãn cái ta một cách trơ trẽn thực sự không ích lợi cho tôi về phương diện thực chứng chân lý.

Cha mẹ tôi tuy ít học nhưng hai người biết nhét vào đầu họ những câu niệm Phật đơn giản. Chính vì sự quá đơn giản này mà không ai ngờ nó ẩn chứa trong đó một sức mạnh tâm linh và trí tuệ siêu thoát vĩ đại bởi sức gia trì của chư Phật.

Từ nay với lứa tuổi 50 tôi phải dũng mãnh dừng lại sự giảng dạy, lập tức quay đầu niệm Phật. Đời sống có ý nghĩa gì khi ta không thể nhận thức vòng sanh tử luân hồi vô gián đoạn đã kéo lê kiếp sống vô minh mà ở đó nỗi thống khổ và đau đớn thê lương của mình cùng hàng triệu sinh linh luôn luôn đè nặng.

Tôi không dám dụng ý khuyên mọi người niệm Phật theo tôi. Nhưng tôi muốn bày tỏ sự giác ngộ của mình khi nhìn thấy song thân tôi không có một trình độ chi hết mà được tái sanh nơi cõi Phật trong khi đó tôi là một người tu hành xuất thế lại có nhiều bằng cấp học vị tiến sĩ mà rốt cuộc vẫn mù mờ trong ý niệm siêu thoát tâm linh.

Phải chăng tôi đã làm những cái không cần thiết mà tôi tưởng rằng vinh dự? Tuy cha mẹ tôi là người thế tục lại ít học nhưng đã biết làm những cái cần thiết trong cuộc đời quá ngắn ngủi này. Phải chăng tôi dù học rất nhiều nhưng vẫn không đạt được trí tuệ để hiểu lời dạy rất đơn giản của đức Phật là “hãy tinh tấn lên để giải thoát” (không phải tinh tấn để cầu danh hảo thế gian).

Tôi cũng không thực sự hiểu là bản hoài của chư Phật ra đời là để dạy dỗ tâm linh cho mọi người đặng sớm chấm dứt vòng sanh tử chứ không phải để mưu cầu cái gì khác từ thế giới huyền ảo này.

Cái vô minh mà đức Phật thường nhắc đến trong kinh điển phải chăng ám chỉ mọi người không biết MÌNH LÀ AI? PHẢI LÀM GÌ? Và CHẾT ĐI VỀ ĐÂU? trong cuộc đời quá ngăn ngủi này.

Thích Nữ Tuệ Nhi