Chim Việt Cành Nam Trở Về  ]



 
 
 
Số 38 / 14 - 02 - 2010
Quê Hương - Phong tục 
. Nguyễn Dư  :
Hổ được nhiều bàn tay khéo léo, nhiều khối óc thông minh, thi nhau đánh bóng, phết sơn, tô màu. Xanh, vàng, trắng, đỏ, đen. Hoa cả mắt. Chắc nhờ vậy mà hoá thiêng. Ngoài cái vỏ loè loẹt, hổ còn được đám con thần cháu thánh ban cho một cái oai thật to. To gấp mấy lần cái chuồng sở thú. Nhe răng, giơ vuốt, gầm thét, ai mà chả sợ. Nhưng đáng sợ nhất là hổ có tài ẩn hiện dưới nhiều bí danh. Hôm nay là hùm, ngày mai là cọp. Chỗ này là kễnh, nơi kia là khái. Thỉnh thoảng nổi hứng tự xưng là ông. Ông ba mươi đàng hoàng, chứ không phải thằng này, con nọ. Đứa nào hỗn láo thì ông xé xác, nuốt tươi cho biết... nanh vuốt của ông ! Trong hang tối mắt thần khi đã quắc, là khiến cho mọi vật đều im hơi (Thế Lữ). Hèn gì người ta khiếp sợ ông đến độ phải rủ nhau tôn thờ, lạy lục, cầu khẩn. Nhưng thói đời vốn kiêu bạc, giả dối. Trước đám đông, đứa nào cũng sợ ông nhưng quay mặt đi thì có đứa... sợ đếch gì nó! Nó chẳng qua cũng chỉ là... đồ súc vật. Có quái gì mà phải sợ ! Lúc hết thời, bị hạ bệ thì hổ bị phỉ nhổ là đồ mã, là... cọp giấy. Thậm chí hổ còn bị khinh là ngu. Bị anh nhà quê phạng cho một trận nên thân. Tha hồ dậu đổ bìm leo. Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu !
Ngày xưa, hổ là biểu tượng của sức mạnh, quyền uy của vua chúa.
. Thu Tứ : 
Bàn về quá trình mở nước, thì người Tàu đi trước người Việt rất xa. Cách nay hơn hai nghìn năm, họ đã mở xong Hoa Nam, rồi mở tiếp luôn ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, tức Bắc bộ và một phần Trung bộ nước ta bây giờ. Từ khi giành lại được độc lập năm 939, người Việt cũng ráo riết Nam tiến, thôn tính hết Chiêm Thành đến Chân Lạp. Sau hơn tám trăm năm liên tục bành trướng, đến khoảng giữa thế kỷ 18, nước Việt Nam chính thức trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau.
Cùng trong một nước, văn hóa ở mỗi địa phương vẫn hay có sắc thái riêng. Trung Quốc chẳng hạn, giữa thơ văn Hoa Bắc với thơ văn Hoa Nam có những chỗ khác nhau rất đáng kể, như Lâm Ngữ Đường đã trình bày trong danh phẩm My country and my people.(1)
Nước ta, về văn học, giữa miền nọ với miền kia có sự phân biệt rõ ràng như bên Tàu chăng?
Xã hội Trung Quốc tổ chức theo Nho giáo hơn hai nghìn năm. Ðạo Khổng bền, hẳn có hợp với người Tàu. Khổng Tử đề cao thái độ trung dung. "Trung là không thái quá, không bất cập".(1) "Dung là bất dịch, là không thay đổi".(2) Trung dung nghĩa luôn luôn chừng mực. Vậy người Tàu ít cực đoan.
Chuyện hợp lý, gần đây bỗng sinh ngờ vực. Vài quan sát ngẫu nhiên một hôm gây thắc mắc. Bèn thử đặt lại vấn đề.
.Cát Hoàng : 
Mỗi Quốc gia hoặc vùng, miền ngày Tết đều mang đặt trưng riêng. Ở đây chỉ xin ghi lại đôi nét cảm nhận về phong tục Tết Việt Nam mang đặc thù ở miền Nam nói chung và của Bến Tre nói riêng.
Ngay từ tháng chạp bà con mình đã tất bật chuẩn bị đón Tết. Hộ buôn bán lo trữ bánh mứt, trà rượu, áo quần,... để phục vụ; hộ nông thôn lo thu hoạch mùa vụ lúa gạo, cây trái,... và mọi người cùng chuẩn bị đón Tết.
Tuỳ theo dự đoán và canh thời tiết, từ giữa tháng chạp mà mỗi nhà  lặt lá mai để cây mai trổ bông rộ vào ba ngày Tết (Lúc nầy bà con mình chưa đúc kết được kinh nghiệm như bây giờ, đã lặt lá mai và chăm bón phân trước vào khoảng giữa năm để cây mai cho nhiều nụ, nhiều bông to đẹp hơn).
. Quỳnh Chi : 
Có một chị rất giỏi tiếng Nga, có lần đã đố tôi dịch chữ "bùi " sang các ngoại ngữ, mà theo chị thì chị đã không thể nào tìm được một tiếng Nga nào để dịch cho chính xác..
1-Từ đó tới nay tôi đã tìm và giải thích cho các bạn Nhật để nhờ họ dịch dùm, lần nào họ cũng đưa ra từ ngữ  "hokuhoku suru " và thí dụ như :
-Kono imo wa hokuhoku shite, umai.
Tuy nhiên tự điển quốc ngữ cúa Nhật giải thích " hohuhoku " là
-Nimono ga yawarakaku hogureru yousu. ( Trạng thái mềm và bở của các món nấu -kho hay hầm-)
Như vậy hokuhoku chỉ trạng thái mềm (bở) của món nấu (có lẽ là khoai hầm hay hấp) chứ chưa diễn tả được vị "bùi".
Vậy thế nào là " bùi" ?
2- Nghe đâu trong tiếng Anh có từ buttery taste. Nếu quả thật người ta dùng chữ này để diễn tả ý nghĩa "bùi", thì như vậy là trong "bùi" có yếu tố "béo".
Nếu là "béo", tiếng Nhật là "aburakkoi" (abura = dầu mỡ )
------> Bùi 
. Nguyễn Thị Chân Quỳnh :
Nguyên = đầu, Ðán = buổi sớm mai. Nguyên Ðán là buổi sớm mai của đầu năm. Tết Nguyên Ðán là cái lễ đầu tiên của năm mới, vào ngày mồng một tháng giêng âm lịch, song không phải tháng giêng bao giờ cũng bắt đầu vào tháng Dần như hiện nay vì thuở xưa mỗi triều đại lên ngôi lại đổi ngày Chính sóc (sóc = mồng một, đầu tháng âm lịch).
Âm lịch lấy tên 12 chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...) đặt tên cho 12 tháng, 6 tháng thuộc dương, 6 tháng thuộc âm, theo luật "tiêu trưởng" : hễ âmtiêu thì dương trưởng, âmtrưởng thì dương tiêu vv.
Nhà Tầnchọn tháng Hợi (tháng 10) làm tháng giêng. Theo Kinh Dịch thì quẻ KhônHợi cung (Khôn là Ðất, là đầu mối mọi cuộc biến thiên) và tháng 10 thì khí dương đã hàm chứa ở dưới.
Nhà Chu chọn tháng (tháng 11) làm tháng giêng. Quẻ Phục cung, tháng 11 thuộc tiết Ðông chí, dương bắt đầu sinh, khôi phục lại nguyên khí.
Nhà Thương, sau đổi gọi là nhà Ân, chọn tháng Sửu (tháng 12) làm tháng giêng. Quẻ Lâm Sửu, Sửu là trâu, trâu thuộc Thổ là Ðất, Ðất có thể ngăn nước, chống rét nên trong lễ Lập Xuân người ta làm trâu bằng đất để tống khí lạnh đi.
Nhà Hạ, nhà Hán và hiện thời chọn tháng Dần làm tháng giêng. Quẻ Thái Dần cung (Thái= hanh thông), khí hậu ấm áp trở lại, tiện cho việc nông, nên ngày Tết Nguyên Ðán vừa là ngày lễ mừng mùa Xuân trở lại, vừa là ngày lễ bắt đầu năm mới .
Năm xưa, có lần nhân dịp Tết, Tú Xương (1870-1907) đã cao hứng viết một bài hát nói, đến nay còn lưu truyền :

Tết dán câu đối (1)

"Nhập thế cục bất khả vô văn tự" (2)
Chẳng hay ho cũng phải dự một vài.
Huống chi đã đỗ Tú-tài,
Ngày Tết đến cũng phải một, hai câu đối.
Ðối rằng :
"Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài,
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt." (3)
Viết vào giấy, dán ngay lên cột,
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay ?
Rằng :"Hay thì thật là hay,
Chẳng hay sao lại đỗ ngay Tú-tài ?
Xưa nay em vẫn chịu ngài !"

Bài này đáng chú ý một phần vì nó là một trong những bài thơ Tết hay và một phần vì Tú Mỡ - một nhà thơ trào phúng khâm phục Tú Xương đến nỗi chọn bút hiệu cũng phỏng theo tên của thi sĩ sông Vị- nhân đọc nó mà nẩy ra ý viết bài :

Khai bút rông

Là văn sĩ lẽ nào không khai bút ?
Chẳng hay ho cũng nắn nót một bài.
Ngót hai năm xổng bút mỉa mai đời,
Thì Tết đến cũng phải có bài thơ... rắc rối !
Giót thêm mực, thay ngòi bút mới,
Thảo mấy dòng cảm khái sau đây.
Thơ rằng :
Tú chi Tú ấy nực cười thay,
Chẳng phải Nho, mà chẳng phải Tây !
Dửng mỡ, trêu đời, văn mách qué,
Thế mà cũng tiếng bấy lâu nay !
Ngồi ngâm thơ, đùi rung chuyển ghế mây,
Rồi chép lại, rắp thả ngay " Giòng nước ngược".
Bắt chước cụ Tú Xương thuở trước,
Hỏi mợ Tú rằng nghe được hay chăng ?
Bĩu môi, mẹ đĩ chê rằng :
"Nôm na mách qué, nhố nhăng nực cười !"
Ðầu năm đã bị rông rồi,
Hẳn là văn viết ngược đời quanh năm !

Cả hai bài cùng vui nhộn, rất hợp với không khí ngày Tết. Ðọc xong hai vị Tú -một thật (Tú Xương) và một giả (Tú Mỡ)- ta nhận thấy : ...

. Trịnh Thanh Thủy : 
Gần đây Hà Nội tưng bừng với cuộc triển lãm ảnh Để hiểu hơn về một Hà Nội xưa, do tạp chí Xưa và Nay phối hợp với Thư viện Hà Nội tổ chức. Báo chí toàn quốc đều loan tin và viết bài phóng sự về cuộc triển lãm hiếm có đã quy tụ được nhiều nhà sưu tập ảnh, trong đó có nhà sưu tập bưu ảnh nổi tiếng người Pháp Philippe Chaplain.

Trong số các bài viết có một bài viết "Lý lịch bằng ảnh của một thuộc địa" của Kiều Trinh gây sự chú ý đến người đọc nhiều nhất. Nó tạo sự ngạc nhiên không những bằng vài tấm ảnh áo yếm của phụ nữ bị bóc vỏ mà còn bằng những lời tuyên bố đáng suy ngẫm của một hội viên hội khoa học là ông Lê Cường và những nhận xét của nhà nhiếp ảnh Hữu Bảo.
(...)

Càng nhìn những tấm ảnh hở hang của phụ nữ Việt Nam xưa, tôi càng nghi ngờ, càng thấy rõ tính dàn dựng phi thực tế trong chủ ý của người chụp và dã tâm của người phổ biến chúng vào bưu thiếp như một phương tiện quảng bá ngành du lịch hay một mưu đồ chính trị gian trá của Pháp quốc thời ấy.

. Giới thiệu nhạc : 
. Nguyễn Chính : - Ru anh ( ca sĩ : Thanh Hường)   - Làng Bậm ơi! ( ca sĩ: Lê Huyên) 
. Nguyễn Văn Thơ : - Em, Anh và Tình yêu (Thơ: Song Vinh / ca sĩ : Quang Thọ)  - Ngồi níu tuổi trời (Thơ: Tuyền Linh / ca sĩ : Quỳnh Lan ) - Tình ơi  (Thơ : Đặng Lệ Khánh / ca sĩ : Anh Ánh )
. Khanh Phương : - Vẫn mãi đi tìm (Ca sĩ : Xuân Phú)
 
Truyện ngắn - Ký - Văn - Biên khảo
. Nguyễn Quý Đại :
Năm cũ trôi qua năm mới lại về, chúng ta sửa soạn nghênh đón tên con vật mới, từ trước đến nay việc chọn tên các con gia súc và thú vật hoang dã làm biểu tượng mỗi năm gọi là 12 con giáp. Theo thời gian có sự liên hệ 12 cung Hoàng đạo cần phải nói đến Ngũ Hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Người Tây phương tính theo chu kỳ sao Jupter (木星 Mộc tinh) quay quanh mặt trời là 12 năm. Mỗi năm nó xuất hiện ở một phương vị nhất định, nơi đó do một trong 12 con giáp đang trấn giữ. Mười hai con vật được gọi là 12 địa chi tượng trưng cho chu kỳ một năm. Trong số các con giáp này mỗi con vật đại diện 2 giờ đồng hồ trong một ngày 24 tiếng. Con rồng là con vật thần thoại và Tí, Dần, Tỵ, và Thân là những con vật sống hoang dã và thường tránh gặp con người. Bảy con còn lại là gia súc, theo chu kỳ 12 năm thì lại mang tên con vật cũ.

Đời sống Việt Nam ảnh hưởng nông nghiệp nên sử dụng cả Âm Lịch và Dương lịch. Trong dân gian tính ngày âm theo phong tục: tế tự, lễ hội, ma chay, cưới gả, dựng nhà.. Năm 2010 theo Âm lịch ngày 14.2.2010 Dương lịch là ngày Mùng Một Tết năm Canh Dần. Hổ đứng thứ 3 trong 12 con giáp lên ngôi. Nhìn lại 12 tháng qua con Trâu siêng năng, làm việc mệt nhọc suốt ngày đêm, từ từ đưa cơn suy thoái kinh tế vượt qua vực thẳm, thế giới nhiều thay đổi, Tổng thống đầu tiên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là người da đen.

. Trấn Xuân An : 
Trong nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có một người thơ viết nên những bài thơ vì tình yêu đương của riêng mình và cho tình yêu đương của mọi người. Nói đúng ra, thật khó phân biệt trong dòng nước sông Hương đâu là những hạt nước từ nhánh nguồn này, đâu là những hạt nước từ nhánh nguồn kia, mặc dù ai cũng biết dòng sông ấy hợp lại từ hai mạch thẳm rừng sâu.

Với tuyển thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ, "Chỉ riêng mình em thấy" (*), tôi không thể gọi bằng danh xưng nào khác về tác giả: Người Thơ. Vâng, là người thơ (thi nhân), với tất cả ý nghĩa rất đẹp của từ ngữ. Lâm Thị Mỹ Dạ là thơ tình ấy và thơ tình ấy là con người của Lâm Thị Mỹ Dạ. Không phải ở bất kì nhà thơ nào cũng có sự đồng nhất này.

Ấn tượng đậm nhất về một nửa cõi tình thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

. Võ Quang Yến :
Trong khuôn khổ chương trình biểu diễn sinh động bắt đầu từ ngày khai trương, viện Bảo tàng Đường bờ sông Branly ở Paris tiếp đón ở nhà hát Claude Lévy-Strauss đoàn xiếc Việt Nam Làng tôi trong một loạt 9 buổi trình diễn đặc biệt (buổi chiều và buổi tối) từ 18 đến 27 tháng sáu 2009. Dựng lên theo đề nghị của Hội đoàn Sân khấu Địa cầu Pháp và yêu cầu của viện Bảo tàng để trình diễn ở đây, Làng tôi đã được báo chí Pháp đánh giá là một đoàn biểu lộ tính thường xuyên và tính độc đáo của nền văn hóa Việt Nam qua một lối biểu diễn ít thấy đến nay : môn xiếc mới. Phản ánh hình ảnh tuồng và múa, đoàn đã tiếp tục truyền thống Việt Nam, cảm hứng theo đời sống để dựng lên những màn phục hồi không khí xác thực đồng quê. Trên một thảm đất màu nâu nhắc nhở đất sông Hồng, đất nông thôn, những thân cây tre đủ kích thước làm rường cột cho những giàn giáo ráp dựng ngay tại chỗ, trong thời gian biểu diễn, cũng như khi được sử dụng bay lượn trên dưới quanh mình trong những điệu múa là yếu tố chính trên sân khấu luôn nhắc nhở nguồn gốc Việt Nam của đoàn, kể cả những vùng sắc tộc mà khán giả luôn nghĩ tới khi xem trình diễn. Thừa hưởng truyền thống lâu dài của đất nước chuyển từ đời nầy qua đời khác, đoàn không ngần ngại tiếp nhận những mới lạ của những đoàn ngoại quốc thường xuyên tiếp xúc : Tàu, Pháp và gần đây những đoàn các nước Tây phương. Có những nhà báo tiếc là nhà hát quá nhỏ cho 14 nghệ nhân để các động tác phát triển được toàn diện, lối diễn xuất ánh sáng cũng cần có chiều sâu mới tỏa ra được toàn biên độ. Tích cực là phòng nhỏ thì khán giả rất gần với diễn viên, mỗi một lúc tưởng như họ vượt ra khỏi sân khấu, từ đấy dễ chia sẻ với họ nỗi vui thích luôn chan hòa mặt mày khi biểu diễn...
. Vĩnh Phúc : 
Có thể nói hát Ả đào (hay Ca Trù) là một nét son trong truyền thống sinh hoạt nghệ thuật âm nhạc chuyên nghiệp cổ truyền của người Việt. Không quá đáng nếu cho rằng: hát Ả đào, suốt một chiều dài lịch sử, bằng một sức sống mãnh liệt đã cô đúc và tiềm ẩn trong nó những tín hiệu đặc trưng độc sáng của văn hóa dân tộc. Một thể loại mà trong tiến trình phát triển đã thích ứng, hòa nhập với đủ mọi thiết chế văn hóa của xã hội Việt Nam: vừa mang tính chuyên nghiệp cao trong cung vua phủ chúa (hát cửa quyền); vừa mang đậm yêú tố dân gian trong tín ngưỡng thờ thần hoàng ở hàng xã hàng huyện (hát cửa đình) và kể cả giai đoạn "bán chuyên" như ở môi trường hát nhà tơ, hát cô đầu, quan viên...Đặc biệt, Ả đào không phải chỉ là một hình thức sinh hoạt nghệ thuật dành riêng cho một tầng lớp nào mà có thời nó đã trở thành một sinh hoạt phổ biến trong công chúng, như học giả Nguyễn Đôn Phục trong Khảo luận về cuộchát ả đào đã cho biết: " hát ả đào chỉ Bắc kỳ ta là thịnh nhất, không tỉnh nào không có, không huyện nào không có. Trong một huyện thường hai ba làng có ả đào, mà Trung kỳ thời chỉ tự Nghệ, Tĩnh trở ra là có cuộc hát ả đào mà thôi".


. Michel BRUN :

Il y a un peu plus de 100 ans … à Cholon
Le Lycée Franco-Chinois
Devenu il y a 50 ans …
Le Collège Fraternité
C’est en 1908 que, sur l’initiative de M. Tsia Man Yan, fut créé une association de commerçants, banquiers, directeurs d’usine, chefs d’entreprise, aussi bien chinois que français. Cette association fut, dès ses débuts, encouragée par le gouvernement général de l’Indochine pour la création du " Lycée Franco-Chinois ". Malgré son nom, qui pourrait laisser supposer, un établissement d’Etat de l’enseignement secondaire, cette institution privée revêtit dès le départ un caractère original, différent par ses programmes et ses buts de ses homologues français locaux ou métropolitains, et chinois. Située à Cholon, rue Cây Mai (qui deviendra rue des Frères Louis, puis rue Nguyên Trai) sur un terrain de 5 hectares.
Le but que se proposait l’association – et qui a été atteint – était de donner aux enfants des résidents chinois d’Indochine la possibilité de s’instruire sans avoir à quitter le pays où étaient installées leurs familles. 
. Nguyễn Xuân Quang : 
Hai chữ viết nòng nọc ngày nay chúng ta còn thấy trước mắt hàng ngày là chữ nòng vòng tròn O và nọc tam giác Δ .
Trước hết xin mời đọc giả hãy vào “phòng nghỉ ngơi” (rest room) làm vệ sinh cho thoải mái rồi hãy đọc bài viết này.  Nhưng hãy coi chừng, phải nhìn kỹ bảng hiệu kẻo không lại đi nhầm phòng mà mang họa. Phòng vệ sinh ở Hoa Kỳ hay một vài nơi trên thế giới thường có bảng hiệu chỉ rõ:
-Phòng vệ sinh nữ có bảng hiệu là vòng tròn đặc thường thấy nhất là trong có phụ đề thêm một hình người nữ mặc váy:
Cẩn thận hơn để tránh lầm lẫn và dùng cho người biết chữ Anh thì có phụ đề thêm chữ women ở dưới:
-Phòng vệ sinh nam có bảng hiệu là hình tam giác thuận đặc thường thấy nhất là trong có phụ đề một hình người nam, có hay không có phụ đề thêm chữ MEN:
-Phòng vệ sinh dành cho cả hai phái có bảng hiệu là hình tam giác nằm trong vòng tròn: 
.thường thấy có phụ đề thêm hình người nữ/nam và chữ Women/Men:
.nhưng có trường hợp chỉ là hình tam giác nằm trong vòng tròn: 
Phòng vệ sinh công cộng dành cho cả hai phái nam nữ tại một đường phố ở Hoa Kỳ có bảng hiệu hình tam giác thuận nằm trong vòng tròn. Đây là một nhà “vệ sinh siêu cận đại”. Bồn cầu tự động rửa sạch, tẩy thuốc sát trùng, sấy khô, xịt hương thơm, rồi tự động gấp lại dấu kín vào trong tường. 
Lưu ý khung trắng ở phía trên bảng hiệu nam/nữ cho biết bên trong còn trống không, chưa có người, khi có người sẽ hiện lên chữ “occupied” (bận, có người). 
. Nghiêu Minh (kịch ) : 
(Một đoạn nhạc dạo đầu, êm nhẹ. Có tiếng hát lướt theo rồi dần chìm chìm đi, nhưng vẫn còn quanh đây âm hưởng...)

XƯỚNG NGÔN: Bên kia dòng sông là những tiếng hát u buồn, được gói ghém trong một loa phóng thanh. Nắng chiều chạy xiên theo những đường thẳng xám thẩm thành những nét thô xa lạ. Tiếng hát theo đó mà dứt. Đêm theo đó mà về.
Một ngọn nến bắt đầu được thắp lên trong một căn lều nhỏ. Bấy giờ, trong ánh sáng ấm cúng hiện rõ ba khuôn mặt thân thuộc. Ba khuôn mặt ngồi theo một vòng tròn xoay ngược với kim đồng hồ; lần lượt là chị Duyên, Hà, và sau hết là một người con trai lạ. Ba người ngồi im lặng thật lâu. Thỉnh thoảng người này bắt gặp tia nhìn người kia. Hoặc ba người nhìn nhau một lúc. Hoặc hai người nhìn một người. Một người nhìn một người. Và một người nhìn mông lung để dấu một hơi thở dài man mác buốn.
DUYÊN: Bây giờ mấy giờ, Hà?
: Chi đang đợi cái gì?
DUYÊN: Không chờ đợi gì trong lúc này. Chị cảm thấy sờ sợ thôi.
: (đưa cánh tay trái đặt lên bàn) Đã hơn mười giờ rồi.
NGƯỜI TRAI LẠ: Còn hơn một giờ để ao ước (chợt cười). Chị dường như ân hận trời đã cho mình thêm một tuổi. Bây giờ chị đang vui như tôi đang vui. Hà đang vui như mọi người đang thầm tính toán đến hạnh phúc được mấy vì sao trong những đêm xanh dài ngồi tưởng tượng.
...

. Trần Văn Khang :
Một trong những bài thơ Đường tứ tuyệt vẫn còn được ưa đọc, ngâm nga, nhắc nhở cả trên ngàn năm sau là bài Bạc Tần Hoài hay Tần Hoài Dạ Bạc của thi hào Đỗ Mục (803-852) thời kỳ Vãn Đường:

Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa

Tạm dịch : Đêm bên bến Tần Hoài

Khói lồng sông lạnh trăng lồng cát
Đêm đến Tần Hoài cạnh tửu gia
Thương nữ biết chi sầu mất nước
Cách sông hát khúc Hậu Đình Hoa

Học giả Trần Trọng Kim dịch bài này như sau:

Khói lồng nước, bóng trăng lồng cát
Bến Tần Hoài, thuyền sát tửu gia
Gái ca đâu nghĩ nước nhà
Cách sông vẫn hát khúc ca Hậu Đình

Thương nữ trong bài thơ có nghĩa là con hát, là người kỹ nữ ca hát để giúp vui thiên hạ, không phải là nữ thương nhân đi buôn bán.

. Nguyễn Nam Trân (dịch) 
Cái tên "truyện ngắn trong lòng bàn tay" đến từ tiếng Nhật "tenohira no shôsetsu" (chưởng tiểu thuyết) như cách gọi của hầu hết các nhà văn học sử. Đó là một thể loại tác phẩm văn học có đặc điểm là ngắn, ngắn đến nỗi có thể gói trọn trong lòng bàn tay. Thể loại này còn được nhà phê bình văn học Chiba Kameo (1878-1935), một người cổ vũ cho văn học đại chúng dưới thời Taishô (1912-26) gọi là "shôhen shôsetsu" (chưởng biên tiểu thuyết). Ngoài ra, nhà phê bình Hasegawa Izumi (sinh năm 1918), một người thân cận với Kawabata, đã chủ trương phải đọc là "tanagokoro shôsetsu"  tuy viết cùng ba chữ Hán "chưởng tiểu thuyết". Hasegawa kể lại mình vì thắc mắc nên đã hỏi ý kiến Kawabata và được chính nhà văn đồng ý về cách đọc này . Khi dịch ra tiếng Việt, chúng tôi rất bối rối, không biết nên gọi "trong lòng bàn tay", "một gang tay" hay "trong gan bàn tay". Sau khi tham khảo cả lối hiểu của người Tây Phương (palm , paume), xin tạm giữ lối gọi "trong lòng bàn tay" cho giống mọi người. Có thể dịch là "truyện cực ngắn" nhưng làm như thế lại đánh mất cái tên rất gợi hình của nó.

Trước Kawabata và đồng thời với ông, đã có nhiều người viết những truyện rất ngắn từ một vài hàng đến mươi hàng hay một hai trang. Tiêu biểu nhất - về độ ngắn mà thôi - từ xưa đã có những công án hay truyện thiền (Vô Môn Quan, Bích Nham Lục hay Sa Thạch Tập). Một thoại của Vô Môn Quan (tác phẩm Trung Quốc đời Tống nhưng đã đến Nhật rất sớm, giữa thế kỷ 13) vỏn vẹn có vài giòng (ví dụ thoại "Triệu Châu cẩu tử" dài đúng có ba hàng). Những mẩu truyện của Natsume Sôseki (1867-1916) trong Yume Juuya (Mười Đêm Mộng Mị, 1908) tuy ảm đạm và huyền bí hơn nhưng cũng rất ngắn, rất thơ, gần với tác phẩm đến sau của Kawabata. Thân thể đàn bà (Nyôtai) của Akutagawa Ryuunosuke (1892-1927) cũng ngắn gọn, thâm trầm. Một tác giả Mỹ đồng niên đại với Kawabata là E. Hemingway (1899-1961) đã để lại những truyện cực ngắn như Up to Michigan, thu được trong lòng bàn tay.

Tuy nhiên điều quan trọng cần nêu ra đây là hành trình đi vào "truyện ngắn trong lòng bàn tay" của Kawabata không phải là một hành trình đơn độc. Ông chỉ là một người trong nhóm bút trẻ của tờ Bungei Jidai (Văn Nghệ Thời Đại) đã cùng nhau đăng trong số báo tháng 2 năm Taishô 14 (1925) một loạt truyện cực ngắn chỉ có từ mươi đến vài mươi giòng. Tên tuổi các cây bút trẻ cùng chí hướng đã thể nghiệm hay chú ý về mặt lý luận của loại tiểu thuyết cực ngắn thời đó nay còn được nhắc tới là hai người bạn của Kawabata: Yokomitsu Riichi (1898-1947) và Nakagawa Yoichi (1897-1994)... cũng như những người ít được biết đến hơn như Kon Tôkô, Okada Saburô, Takeno Fujinosuke, Suga Tadao, Kamiya Kiichi, Suzuki Ganjirô, Ishihama Kinsaku vv...Đặc biệt Nakagawa và Okada rất năng nổ trong việc khai triển và định hướng cho thể loại văn học này.

. Phạm xuân Hy :
Đàm Cửu là con một nhà bán hoa ở Bắc Kinh. Một hôm, Cửu vâng lời cha mẹ đi thăm một người thân tộc sống ở Yên Giao, ngoại ô phía Đông thành phố. Lúc chàng cưỡi ngựa ra khỏi cổng thành, thì trời đã về chiều.
Giữa đường, chàng gặp một bà lão, áo quần chắp vá, cưỡi một con bạch mã, yên cương rất là hoa lệ, đi cùng đường với Cửu khi trước, khi sau.
Bà lão hỏi Cửu:
- Cậu Hai đi đâu đấy ?
Cửu cho bà lão biết là mình đi ra ngoại ô thăm người nhà .
Bà lão nói:
- Từ đây đến Yên Giao, còn cả mười dặm nữa. Đường nhiều chỗ lầy lội không dễ đi đâu, cậu Hai không nghe người ta nói hay sao? Vả, bây giờ chuông chùa đã đổ, trời đã xế chiều , nơi đây lại hoang dã tịch liêu chắc gì cậu sẽ không gặp đạo tặc cơ chứ ? Tệ xá cũng gần đây, mời cậu ghé nghỉ đỡ đêm nay, mai dậy đi cho thư thả...
Lúc đó, trong lòng Cửu cũng đã nơm nớp lo âu, nghe bà lão bàn như vậy thì chịu ngay.
Bà lão cho ngựa vượt lên trước. dẫn đường cho Cửu. Hai người đi theo một con lộ nhỏ hoang vắng, chừng hơn hai dặm thì đến một khu rừng có ánh đèn thấp thoáng. Bà lão cầm roi ngựa chỉ về hướng đó và bảo Cửu:
- Đến nơi rồi!
Hai người buông cương cho ngựa chạy thẳng đến đấy.
Cửu thấy có hai gian nhà thấp le tè lụp xụp, tường bằng đất cả , vừa tầm vai chàng.
Bà lão xuống ngựa, mở cửa mời Cửu vào. Chàng thấy trong nhà trống rỗng chẳng có đồ đạc chi cả, ngoài chiếc đèn lồng treo trên vách tường. Một người thiếu phụ đang nằm ở trên bục bếp, vạch ngực cho con bú. Bà lão bảo với thiếu phụ:
- Có khách đến chơi kìa. Dậy mau đi chứ!
Người con dâu từ từ đứng dậy, đưa tay vấn lại mái tóc . Ðứa bé đang bú, bị bỏ rơi, bật khóc oe oe.
Bà lão bèn móc trong túi ra một chiếc bánh nướng đưa cho nó , thì nó nín ngay không khóc nữa.
Cửu thấy người thiếu phụ khoảng hai chục tuổi. Đôi mắt ươn ướt như vướng lệ, trông sầu thảm, u buồn, chẳng có gì là vui vẻ hoan lạc.
. Quỳnh Chi : 
Có một cái gì ấy bất tường và như báo điềm chẳng lành, cứ đè nặng trong lòng tôi. Một cảm giác bứt rứt khó chịu, giống như bị nặng đầu vì hôm trước uống rượu, mà ngày nào cũng uống rượu rồi sau đó bị váng vất mãi. Cái cảm giác ấy lại đến. Thế này thì hơi phiền đấy. Phiền không phải vì bệnh lao phổi hay vì thần kinh suy nhược. Cũng không phải vì tôi đang bị nợ chồng chất ngập đầu. Mà phiền là vì chính là cái khối bất tường chẳng lành ấy. Dù cho bất cứ thứ âm nhạc tuyệt diệu nào trước đây đã từng làm tôi thấy vui lòng, bất cứ câu thơ nào dù hay đến đâu, giờ đây cũng nghe ra cay đắng. Dù tôi đã đến tận nơi nghe nhạc từ chiếc máy hát, thế mà chỉ mới nghe được chừng hai ba đoạn đầu là đã phải đứng lên bỏ đi. Cái gì đã làm tôi bứt rứt khó ở đến như thế này không biết. Vì thế mà tôi đã đi lang thang mãi ngoài đường, hết phố này sang phố khác.

Tôi còn nhớ, không hiểu vì sao mà dạo ấy tôi bị cuốn hút mãnh liệt bởi những cái gì đẹp mà tàn tạ. Nếu là phong cảnh thì đó là một khu phố sắp đổ nát, trong khu phố ấy tôi lại thích các ngõ hẻm hơn là mặt ngoài đường xa lạ khách sáo. Trong các ngõ hẻm trên đầu có chăng những dây phơi quần áo đã ố màu, dưới đất la liệt những thứ chẳng có giá trị gì, các nhà hai bên ngõ nhìn vào chỉ thấy những căn phòng nhếch nhác tồi tàn. Chỉ có cây cối là mọc mạnh, đôi khi còn bất ngờ bắt gặp một bông hoa hướng dương hay hoa loa kèn nở chói.

. Phạm Vũ Thịnh :
Hai cánh tay bóng đen giương lên, hai bàn tay cầm kiếm tấn ở tầm cao. Hai chân dang rộng theo thế đứng như thanh gỗ dộng chuông, chân phải tấn phía sau, bàn chân bấm sâu vào đám sỏi trên bãi cát. Sau lưng là trời sao soi bóng xuống dòng sông, bóng đen to lớn cầm kiếm đứng chắn như ngọn núi trước mặt, khiến Okita cảm thấy ớn lạnh tận đáy lòng. Anh nghĩ: có vẻ mình đã thấy tên này đâu đấy rồi. Tức thì, anh tấn kiếm chìm xuống, chĩa kiếm vào mắt địch. Rồi nâng tay kiếm lên chút ít, chĩa mũi kiếm về phía cổ tay địch, chân nhích dần tới, thu ngắn khoảng cách.

Có vẻ anh đã có tính toán gì rồi. Phía địch thì vẫn giữ nguyên thế tấn kiếm ở tầm cao.

Okita định dụ địch, nên ra bộ nhắm chém vào cổ tay trái của đối thủ nãy giờ để trống. Như đáp ứng, bóng đen chuyển động. Trầm người xuống. Tức thì, tiếng lưỡi kiếm địch rung lên mãnh liệt, chém xuống cẳng chân Okita. Cỏ mùa hè trên bãi cát bị chém đứt tung bắn lên.

A, quả là tên này rồi! Khi nhận ra đấy là Hiraoka Shogetsusai ở Warabi, thì hai bàn chân của Okita đã phải nhảy từng nhịp tưng tưng kỳ dị trên lớp sỏi của bãi sông.

Tạp chí Time năm 1997 viết rằng Murakami Ryu là "một trong 11 người sẽ cách-mạng-hoá Nhật Bản" ("One of the 11 who will revolutionize Japan").

Murakami Ryu sinh năm 1952. Con trai duy nhất của một gia đình song thân làm nghề dạy học, cho đến năm 18 tuổi, ông sống ở Sasebo, Nagasaki, thành phố cảng có căn cứ Hải quân Mỹ, chịu ảnh hưởng văn hoá Âu Mỹ. Thời trung học cấp ba, ông đã là một học sinh ưu tú, tay trống trong ban nhạc Rock, và chủ bút tờ báo trường. Nhằm vào cao trào sinh viên học sinh phản thể chế, phản đế, phản chiến Việt Nam, sự kiện lực lượng Zengakuren - Liên hiệp Sinh viên Học sinh Toàn quốc đến thành phố nầy ngăn chận không cho Hàng không Mẫu hạm nguyên tử của Mỹ vào hải cảng đã tác động mạnh đến ông; năm sau đó, ông cùng bạn bè lập hàng rào phong toả trên sân thượng trường học, chống căn cứ Mỹ ở Sasebo, do vậy mà bị cấm đến trường một thời gian.

Năm 1970, ông lên Tokyo học ở Đại học Nghệ thuật Musashino, ở trọ gần căn cứ quân sự Mỹ Yokota trong hai năm. Ông khởi đầu văn nghiệp với truyện dài "Kagirinaku Tômei Ni Chikai Buru-, Almost Transparent Blue, Màu Xanh Không Ngừng Trong Suốt" năm 1976, mô tả đời sống của lớp người trẻ trong khu vực gần căn cứ quân sự Mỹ, đắm đuối trong văn hoá tính dục, ma túy và nhạc Rock. Tác phẩm đầu tay nầy đoạt ngay giải Tác Giả Mới - Gunzô, và liền sau đó giải Akutagawa, giải văn học cao quý nhất Nhật Bản, và cho đến nay đã bán đuợc trên 2 triệu cuốn. Ông bỏ đại-học, chuyên chú việc sáng tác. Rồi làm việc cho một nhà xuất bản, đảm trách chương trình phát thanh về âm nhạc và phỏng vấn nghệ sĩ, đảm đương chương trình TV, đạo diễn phim ảnh, chứng tỏ tài năng trong nhiều lãnh vực truyền thông.

Trước Murakami Haruki trên 20 năm, Abe Kobo đã được biết đến như một tác gia Nhật Bản nổi tiếng quốc tế về các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, ngụ ngôn, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức của con người bị tha hoá, vong ngã trong xã hội đô thị càng ngày càng tiện lợi và máy móc. Trong nước Nhật, ông thuộc lớp nhà văn tiền vệ, được đánh giá là có tư tưởng và thủ pháp đi trước thời đại. Ngoài nước Nhật, nhà văn, nhà soạn kịch Abe Kobo được ví với Samuel Beckett và Eugène Ionesco.

Abe Kobo tên thật là Abe Kimifusa (Kobo là âm Hán-Nhật của chữ Kimifusa), sinh năm 1924 ở Tokyo nhưng theo cha là một y sĩ sang Mukden, lãnh thổ Mãn Châu lúc đó đang bị Nhật chiếm đóng. Từ nhỏ, Abe thích Toán và sưu tập côn trùng. Năm 1941, 17 tuổi, ông trở về Nhật và hai năm sau vào học Y khoa tại Đại học Đế quốc Tokyo. Ông tốt nghiệp năm 1948, nhưng không hành nghề y sĩ mà bắt đầu nghề văn, gia nhập nhóm văn học do Hamada Kiyoteru lãnh đạo, nhắm đến việc dung hợp những thủ pháp văn học thuộc trường phái Siêu thực với ý thức hệ Mác-xít.

Ông bắt đầu sáng tác từ 1943, nhưng đến 1947 mới tự xuất tiền túi xuất bản tập thơ đầu tay là "Mumei Shishu" (Tập thơ vô danh) . Năm sau đó, ông bắt đầu được biết tiếng nhờ tác phẩm "Owarishi michi no shirube ni" (Trên cột mốc ở đường cùng). Ông chịu ảnh hưởng của Samuel Beckett, Fyodor Dostoyevsky và nhất là Franz Kafka.

Những tác phẩm có tính cách tiền vệ của ông dần dần được giới độc giả trẻ ưa chuộng: "Dendrocacalia" (Cây dendrocacalia, 1949), "Akai mayu" (Cái kén đỏ, 1950), "Maho no choku" (Viên phấn phù thủy, 1950) đều lấy đề tài "hoá thân", biến hình của con người theo kiểu Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm "Kabe - Esu Karuma shi no hanzai" (Bức tường - Tội của S. Karma, 1951) được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta hoá thành nhân cách và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị lôi ra toà án.

. Nguyễn Tường Bách :
Dân thành thị hầu như không bao giờ thấy không gian. Đi giữa những con phố New York người ta thấy mình như trong hẻm núi, không ai ngước nhìn bầu trời. Phố xá Saigon không đến nỗi cao như New York nhưng nơi đây ta chỉ thấy xe và người, không hề có không gian trống trải. Trong đời sống thành thị, hình khối, vật thể và tiếng ồn choáng hết lòng người. Sống lâu trong thành thị người ta tưởng chỉ có thế, con người sớm mất khái niệm về thiên nhiên rộng mở và lặng lẽ. Vì thế tâm con người "văn minh" chỉ là một chuỗi liên tục của cảm xúc và ý niệm được sinh ra từ sự chộn rộn từ bên ngoài.
Doanh nhân thường được xem là lớp người bận rộn, thành đạt và có tiền của. Anh cũng thường là những người có quyền thế, ở vị trí phải điều động hàng trăm hàng ngàn nhân viên, quyết định số phận và nghề nghiệp của rất nhiều người thuộc quyền. Doanh nhân cũng thường tiếp xúc với thượng tầng xã hội, giao thiệp với các giới chức cấp cao trong và ngoài nước. Địa vị của anh do đó là niềm mơ ước của rất nhiều người.
. Minh Hương :
Tiếng sáo của anh vào những buổi trưa hè, trong những đêm trăng làm mê lòng nhiều cô gái làng. Riêng anh chỉ để mắt đến chị. Đám cưới của hai người được tổ chức đơn giản, vội vã như bao đám cưỡi thời chiến khác. Anh lên đường nhập ngũ cùng lời hẹn với người vợ mới cưới: "Chừng nào cây khế còn xanh, anh còn sống trở về..." Lúc ấy, mẹ chồng chị quay mặt đi, dấu vội giọt nước mắt. Bà nghĩ: "Lẽ nào, như mười tám năm trước, cây khế lại là tâm điểm cho một lời hẹn, sẽ lại là sợi dây vô hình buộc số phận của con dâu bà như đã từng ràng buộc số phận cả đời bà" ...
Đã nhiều lần tôi nghe cha nói, ý tưởng trồng mai này của ông có cùng lúc mẹ tôi sinh tôi. Vườn mai, đó là cách gọi của cha con tôi, thực ra đó chỉ là một khoảnh đất nhỏ với gần chục gốc mai. Khi tôi biết bi bô chơi tha thẩn ở sân vườn thì những cây mai còn bé lắm. Lúc đó trong vườn còn có nhiều cây linh tinh khác, sau đó cha phải chặt đi nhường chỗ cho mai. Cha tôi định ngày lặt mai rất chính xác, vì thế cứ ba mươi, mồng một tết là mai nở vàng cả ngõ. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi lần lặt mai, cha thường dắt tôi theo. Tôi chạy nhảy khắp vườn rồi lại nhìn cha làm. Tôi và mai cùng lớn bổng lúc nào không biết, chỉ biết là đã thành lệ, mỗi năm một lần vào dịp xuống lá mai, tôi lại được cha răn dạy nhiều điều. Mỗi tuổi mỗi lớn, tôi có cảm nhận những điều cha nói trong vườn mai không phải ngẫu hứng mà đều đã được định trước và càng ngày càng có ý nghĩa sâu xa hơn. Nhìn dáng vẻ của cha hôm nay, tôi dự cảm ông sắp nói với tôi chuyện gì đó rất hệ trọng.
Vậy là thiếu nữ có đôi mắt lá răm đang nhìn như thôi miên vào chùm hoa nhài trong tấm ảnh mà tôi đang giữ, người thiếu phụ với những bông hoa nhài đến thăm cha tôi ngày ấy và người đàn bà đang lặng lẽ hái hoa nhài trong sân kia là một. Người ấy đã từng đi qua cuộc đời của cha tôi. Nhưng hoa nhài có duyên nợ gì với bà nhỉ? Đó chỉ là sự trùng lặp tình cờ hay còn một lý do nào khác? Ý nghĩ bất chợt ấy khiến tôi có dự cảm cuộc gặp gỡ với bà không chỉ dừng lại ở ý định lúc đầu. Tôi cất tiếng chào cũng dễ dàng, không đến nỗi nặng nề như tưởng tượng khi ở nhà.
- Chào dì ạ!
Bà nhìn lên, nét mặt bỗng thảng thốt. Mãi mới thấy bà trả lời.
- Vâng ! chào ...
- Con là con gái của cha ...
Bà giơ hai tay ôm hai bên thái dương, thốt lên.
- Ôi! Thảo nào, chúng nó giống nhau quá ...
Ùng! Oàng!... Tiếng trẻ khóc thét. Ông Tư đưa tay ôm ngang bụng. "Mình bị thương rồi!". Cảm giác đau xoáy vào ruột ông. Lại tiếng trẻ khóc thét. "Nó vẫn còn khóc, còn khóc được!". Ông càng ôm chặt bụng hơn vì đau quá. "Bị thương sao không có máu?". Ông muốn hét lên nhưng không được, có cái gì đó đè nặng lên người ông.Vẫn tiếng trẻ con ré lên ngằn ngặt. Ông lấy hết sức cố đạp hai chân, miệng há thật to cho đến khi từ trong cổ họng bật ra hai tiếng khản đục: "Không! Không!" mới thấy người nhẹ bỗng. Nhưng sao thế nhỉ? Tất cả là một màu trắng lạnh lẽo. Ông chợt tỉnh: "Ồ! Bệnh viện... Thế là mình lại vừa mộng mị.
. Nguyễn Chính  :
" Môn đệ, nghịch tử" là câu chuyện có thật, đề cập đến một vấn đề mà lâu nay được cả xã hội rất quan tâm. Đó là vấn đề đạo đức suy vi, từng được công luận nhiều lần cảnh báo. Đáng nói là, sự suy vi đó xuất hiện cả ở một số người có trình độ học vấn cao, thậm chí từng nhiều năm đứng trên bục giảng đường đại học. Chuyện về học trò phản thầy, lừa thầy xưa nay không có gì mới. Nhưng với những thủ đoạn quỷ quyệt, tinh vi, tráo trở và trắng trợn như anh học trò trong truyện ký này thì quả là không nhiều. Câu chuyện đã lên án hành vi "ăn cháo đá bát" của anh ta. Nhưng, bạn đọc còn được thấy trong truyện ký một kiểu xử án phản công lý rất trắng trợn, của một phiên tòa giữa Thủ đô. ...  ( Nhà thơ Giang Nam )
Hắn bị đẩy vào phòng giam số 10. Khi cánh cửa vừa đóng lại, Tư Lé đã đưa mắt cho đàn em. Bốn, năm thằng sán đến, nhưng khựng ngay lại khi nhìn thấy hình đầu hổ to tướng xăm trên ngực hắn. Tư Lé cùng mấy đàn em vội quỳ mọp xuống van lạy :
- Chúng em không biết, xin anh Bảy bỏ qua.
Hắn liếc nhìn chúng một lượt, mệt mỏi vứt áo xuống sàn, rồi lăn ra, bất động. Hắn đúng là bảy Hổ, một tay anh chị khét tiếng. Tên cúng cơm của hắn là Hổ. Nhưng để lấy lòng hắn, lũ đàn em vẫn nịnh hót, bợ đỡ, sun xoe gọi hắn là anh bảy Hổ. Nói là khét tiếng, nhưng chưa bao giờ hắn giết ai, ức hiếp ai. Hắn khét tiếng vì giỏi võ, với những chiêu phá vây, giải thoát rất quyết liệt cho đám đàn em đang bị nhà chức trách vây khốn. Khi ấy, dù đang đêm hay giữa ban ngày, hắn đều tả sung hữu đột, mặc kệ súng bắn chỉ thiên, súng bắn thẳng. Hắn vừa phi thân tránh đạn, vừa bất ngờ cùng một lúc làm cho mấy đối thủ phải sóng xoài.
Bảy Hổ chuyên nghề trộm cướp. Hắn là thằng tứ cố vô thân...
Sau lễ tổng kết, được nhận bằng tốt nghiệp loại ưu, kèm theo suất học bổng cao học Anh quốc, thằng Thú phóng như bay về nhà. Nhưng nó khựng lại, không dám ồn ào, khi thấy bố mẹ nó đang chăm chú xem phim "Làng Vũ Đại ngày ấy". Bố nó thì trầm ngâm, còn mẹ nó thỉnh thoảng lại buông một tiếng thở dài. Nó lấy làm lạ. Tưởng gì chứ chuyện Chí Phèo, Thị Nở thì nó đã được đọc, được học từ thời phổ thông. Thị Nở xấu xí, cặp bồ với cha Chí Phèo rạch mặt ăn vạ. Còn cái làng Vũ Đại thì rách nát, có cái lò gạch bỏ hoang, trộm cắp như rươi, suốt đêm chó cắn... Vậy mà sau bữa cơm thịnh soạn, mừng nó đã thành "Trạng nguyên", tai thằng Thú lại ù đặc, nổ lục bục như có súng bắn, khi nghe bố nó bảo: " Chúng ta chỉ là bố mẹ nuôi khi con còn đỏ hỏn. Làng Vũ Đại mới chính là quê cha đất tổ của con đấy...".
Sau một thời lao đao tưởng đến "tắt bóng" bởi "tội" giàu, tóc Phú Ông giờ đã bạc. Nhưng máu làm giàu thì vẫn âm ỉ trong lão, mấy năm gần đây lại dần dật chạy trong huyết quản. Lão vừa trúng thầu cả một đồi bạch đàn và cây ăn trái rộng hàng mấy chục héc-ta. Vậy là vợ chồng con cái lão, cùng những người làm công lại hùng hục bới đất, lật cỏ, mong ngày hốt bạc....
Hôm nay, việc nương rẫy tạm ổn, Phú Ông khăn đóng, áo the, guốc mộc, cuốc bộ ra tỉnh. Lão đang ngơ ngác hết nheo mắt ngắm cái cột đèn cao vút, lại méo miệng đánh vần những bảng hiệu EX, MEX... thì một chiếc xe con màu sữa bóng lộn, đỗ xịch ngay trước mặt làm lão giật mình xuýt té. Từ trong xe, một người đàn ông có nét mặt quen quen bước ra, mừng rỡ kêu đúng cái tên cúng cơm của lão và vồn vã mời lão lên xe. Phú Ông còn chưa hết ngạc nhiên, thì hắn đã đẩy lão ngồi vào ghế sau, đóng sập cánh cửa, hách dịch bảo tài xế : "về nhà !" và quay người lại nói với lão :
- Ông không nhận ra tôi thật à ? Thằng ở đây, Bờm đây !
Chuyện tri huyện Thanh Mỗ đêm ba mươi đi "khám điền thổ" nhà Thị Hến, bị bà huyện bắt tại trận, chẳng mấy chốc đã lan ra cả tổng. Chẳng gì thì ngài cũng là "phương diện quốc gia, quan trên trông xuống người ta trông vào". Mấy tuần liền huyện đường cửa đóng im ỉm, chắc ngài sắp bị tống về vườn. Vậy mà hôm nay lại thấy ngài bệ vệ trên kiệu, lính tráng , trống kèn, tiền hô, hậu ủng rong ruổi khắp làng trên, phố dưới, mặt cứ hơn hớn, chỉ chỉ, trỏ, trỏ...

Có người phao tin, tri huyện Thanh Mỗ thoát hiểm được là nhờ cái áo, đêm ấy ngài mượn của Trùm Sò. Lập tức lời đồn, áo của Trùm Sò là áo thần, áo vía, áo tiên loang ra khắp phủ.

Lê Hoài Nam :
...Giá đừng có dậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Có con bướm trắng thường sang bên này...
Hẳn tất cả những ai yêu thơ Nguyễn Bính đều không thể không thuộc khổ thơ trên trong bài Người hàng xóm. Nhưng hình ảnh con bướm không chỉ có trong một bài ấy mà còn xuất hiện trong nhiều bài khác. Trong văn chương, ở cùng một tác giả mà chăm chú mô tả nhiều lần một hình tượng nào đó, ắt phải có những căn nguyên. Với Nguyến Bính, sau khi đọc toàn bộ di sản thi ca của ông, chắc chắn sẽ không ít người đặt ra một câu hỏi: vì sao trong thơ Nguyễn Bính hình tượng con bướm xuất hiện nhiều lần thế?
Trong bài thơ Tự cười mình, Tú Xương đã "tự thú" về mình như thế. Con mụ ở đây là người vợ tảo tần của Tú Xương. Ông bà Tú sinh hạ được 5 người con. Trước một bà vợ đảm lược, tự nguyện gánh cái trọng trách "nhạc trưởng" trong cái dàn- nhạc- gia - đình ở phố Hàng Nâu ấy, bà còn nâng giấc chăm sóc ông Tú với tấm tình chan chứa đức hy sinh nên đôi khi ông có cảm giác mình như một đứa con ngoại biệt của bà. Chẳng thế mà khi bà hãy còn đang sống sờ sờ mà ông đã viết hẳn một bài thơ dài "tế sống" bà.
Có điều, ông Tú trào lộng tự chê bai mình như thế, chứ trong đời sống thực, ông không phải hạng quá ư vụng về! Trái lại, khi cần trổ tài làm món ẩm thực, ông đâu có kém cạnh ai? Chẳng hạn như tài chế biến món thịt chó của ông, có ngon đến mức "tuyệt cú mèo" hay không chưa cần bàn, nhưng cái phong vị văn hóa của nó thì có dư có thừa.
Năm 1902, cầu Đume (sau đổi thành Long Biên) hoàn thành. Vua Thành Thái từ kinh đô Huế ra Hà Nội dự lễ cắt băng khánh thành. Các quan đại thần trong triều, các quan lớn hàng tỉnh, các bậc đại khoa, nhân sĩ danh tiếng đều được triệu ra dự lễ.
Thời điểm đó, cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã cáo quan về quê nội, nơi có trang viên của gia đình, gọi là Vườn Bùi, nằm ẩn khuất sau những lũy tre vùng đồng chiêm trũng xã Yên Đổ; rồi do sự phức tạp của thời thế, cụ bị ép lên Hà Nội làm gia sư cho gia đình quan Kinh lược Bắc kỳ Hoàng Cao Khải. Dù đôi mắt đã bị lòa, nhận được chỉ dụ, cụ Tam nguyên vẫn phải chống gậy bước ra nơi có lễ cắt băng khánh thành long trọng.
Trên lễ đài, nơi hàng ghế danh dự, ngồi cùng vua Thành Thái, có quan toàn quyền đông dương Pôn Đume và một bà vợ thứ xinh đẹp của vua. 
Cùng trong một huyện Nghĩa Hưng, từ thị trấn Liễu Đề nơi phần lớn  gia đình tôi đang sinh sống đến thôn Quần Vinh, xã Nghĩa Thắng nơi sinh ra và dung dưỡng một con người đầy ấn tượng tên là Vũ Ngọc Bao, dù đi xe máy hay ô tô cũng chỉ mất trên dưới 30 phút, nghĩa là không xa xôi gì. Vậy mà biết chuyện ông Vũ Ngọc Bao đang làm một công việc ôlạ lùngô, tận cùng đức độ, siêu nhân đạo đã bấy lâu, nhưng vì bận công việc, phải tới tháng cuối mùa hạ năm nay tôi mới về thăm ông được. Tuy nhiên, sự trễ nải của tôi lại cũng có cái hay: chỉ còn ít tuần nữa là tới rôm tháng bảy, ngày lễ xá tội vong nhân, dịp này mà đến thăm con người chuyên làm cái việc gom nhặt và chôn cất xác thai nhi như ông Bao là có một ý nghĩa nào đó chứ!


. Hàn Lâm Nguyễn-Phú-Thứ  : 
Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2010 = 4647, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 27 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Canh Dần 2010 này là năm thứ 27 của Vận Niên Lục Giáp 78.

Năm Dần tức Cọp cũng là Hổ, cho nên trong bàn dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở luôn trong sinh hoạt xả hội hằng ngày, từ đó mới có những từ ngữ liên quan, xin trích dẫn như sau :

Dần là con Cọp đứng hạng thứ 3 của 12 con vật trong Thập Nhị Ðịa Chi, tuy là chúa tể sơn lâm, nhưng lại thua con Trâu to con, có cặp sừng trên đầu, đi đứng nặng nề chậm chạp và con Chuột lanh lợi nhỏ con đến trước.

Đối với người Âu Tây, tính theo niên lịch Tây, hầu như thường ăn mừng ngày lễ Giáng Sanh tức NOEL cho đến bước sang năm mới, bởi thế, đối với người Việt Nam sống trên xứ người dù có đạo Thiên Chúa hay không, vẫn ăn 3 lần Réveillon để mừng Giáng Sinh và đón giao thừa mừng năm mới Tểt Tây rồi Tểt Ta, cùng với những lời Chúc Mừng Năm Mới (Bonne Année / Happy New Year) được kéo dài cho đển hểt tháng một (Janvier) như ở Pháp.
Ở nước Pháp, thường trước ngày NOEL khoảng độ một tháng, các tiệm bày bán đồ chơi, bánh kẹo có chocolats, rượu thịt... tung ra thị trường để mời khách hàng mua làm quà tặng trong gia đình hay thân hữu.
Sau khi năm Kỷ Sửu chấm dứt, thì đến năm Canh Dần được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm thứ bảy, 13-02-2010 để cầm tinh đến 24 giờ đêm 02-02-2011. Năm Canh Dần này thuộc hành Mộc và mạng Tùng Bách Mộc tức Gỗ cây tùng bách, năm này thuộc Dương, có can Canh thuộc mạng Kim và có chi Dần thuộc mạng Mộc. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này "Can khắc Chi" tức Trời khắc Đất . Bởi vì: " Mạng Kim = Canh khắc mạng Mộc = Dần (mạng Kim tức Trời được khắc xuất, mạng Mộc tức Đất bị khắc nhập) . Do vậy, năm này xem như tổng quát rất xấu, bởi vì bị Trời khắc Đất giống như các năm : Giáp Tuất (1994), Nhâm Ngọ (2002), Mậu Tý 2008 đã qua. Được biết năm Dần vừa qua là năm Mậu Dần thuộc hành Thổ, nhằm ngày thứ tư, 28-01-1998 đến 15-02-1999.
. Bùi Thụy Đào Nguyên :
Ngô Tam Quế , sinh năm 1612, là Tổng binh cuối triều Minh, sau đầu hàng và trở thành cộng sự của nhà Thanh.
Trước đây, Ngô Tam Quế từng dưới quyền của Viên Sùng Hoán (1584-1630), sau khi viên tướng này bị vua nhà Minh là Sùng Trinh giết chết, Ngô Tam Quế dần dần được trao nhiệm vụ trấn giữ Sơn Hải Quan (nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc).
Khoảng thời gian này, các nhóm khởi nghĩa chống lại nhà Minh đã dần lớn mạnh, trong số ấy có lực lượng của Lý Tự Thành. Sau những thắng lợi liên tiếp, Lý Tự Thành lên ngôi Hoàng đế ởTây An (Thiểm Tây), và rồi đánh chiếm luôn Bắc Kinh vào ngày 26 tháng 5 năm 1644.
Theo cách gọi của các nhà nghiên cứu văn học, thì Minh Thái Tổ (1328-1398) tức Chu Nguyên Chương, chính là người quăng lưới "ngục văn tự" đầu tiên trong triều đại do ông khai sáng (1368-1644).
Chu Nguyên CHương, lúc trẻ nghèo khổ, ít học, từng làm sư ở chùa Hoàng Giác. Trong cao trào khởi nghĩa nông dân, ông đi theo quân Hồng Cân (Khăn đỏ) do Quách Tử Hưng chỉ huy. Đến khi Tử Hưng mất, Nguyên Chương lên thay, tôn Tiểu Minh Vương là Hàn Lâm Nhi làm thủ lĩnh. Sau khi tấn công Tập Khánh (nay là Nam Kinh), Nguyên Chương được phong là Ngô Quốc Công.
Vụ án Minh Sử hay Vụ án văn tự đầu đời Thanh, xảy ra ở khu vực Hàng Châu, Chiết Giang, kéo dài từ năm đầu năm 1662 cho đến năm 1663, dưới thời vua Khang Hi, nhà Thanh ở Trung Quốc.
Thời đầu nhà Thanh, để duy trì được quyền lực, nhà cầm quyền đã áp dụng một chính sách độc tài, nặng về trấn áp và trừng trị. Hai biến động quan trọng nhất mang tính chất răn đe, đó là là vụ Thuế ở Giang Nam (1661) và vụ án Minh Sử.
GS. Phan Khoang, viết:
Nhà Thanh biết rằng người Trung Quốc ắt phản kháng họ, mà nếu có phản kháng thì do các phần tử trí thức lãnh đạo. Vì vậy đối với giới này, họ dùng nhiều thủ đoạn mà một trong số đó là việc mở rộng nhà lao mà đời gọi là ngục văn tự để trấn áp sĩ khí. Có thể nói rằng bấy giờ người Trung Quốc không có tự do ngôn luận...[1]
. Sóng Việt Đàm Giang :
Một trong những bản nhạc nói về mùa thu hay diễn tả mùa thu nổi tiếng ở Việt Nam vào thập niên 70 phải kể đến bài nhạc Mùa Thu Chết của Nhạc sĩ Phạm Duy. Lời viết trong bản nhạc phỏng theo một bài thơ ngoại quốc. Trong bản nhạc, ngay câu đầu tiên có nói đến hoa thạch thảo: "Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo". Hoa thạch thảo cũng được nói đến trong rất nhiều bài thơ văn hay nhạc khác từ trong nước đến hải ngoại. Vậy hoa thạch thảo ở Việt Nam và hoa thạch thảo trong bài thơ L'Adieu của nhà thơ Pháp gốc Ba Lan Guillaume Apollinaire, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc cũng như trong bài thơ dịch của nhà thơ Bùi Giáng khác nhau, có tên Latin ra sao và thuộc họ hay gia đình nào?

Bài viết ngắn này phân biệt hai loại hoa mang tên thạch thảo, một loại mang tên nguyên thủy ở miền Bắc Việt Nam và hoa thạch thảo có xuất xứ ở Ấu châu. Những bàn luận về lý do và tình tiết làm sao bài thơ được ra đời cũng được thu thập và ghi nhận ở đây.

- Paris : Cây cầu Mirabeau  [ PDF ]
- Paris: Những Quầy Bán Sách Cũ Ven Bờ Sông Seine [ PDF ]
- Paris: Tiệm Sách Shakespeare and Company  [ PDF ]
. Nguyễn Vĩnh Tráng :
Bà Huyện Thanh Quan và Bà Hồ Xuân Hương là hai nữ sĩ kiệt xuất trong nữ giới của nền Văn Học Việt Nam vào cuốt thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19. Điều đó khó ai phản bác được. Hai nữ sĩ, mỗi người mỗi vẽ, mỗi người mỗi cung cách, nhưng cả hai Bà đều độc đáo.  Rất nhiều nhà phê bình văn học đã cho Bà Hồ Xuân Hương có một văn phong "bình dân", dùng rặt chữ Nôm, còn Bà Huyện Thanh Quan thì có văn phong "bác học", xen Hán tự nhiều trong tác phẩm của mình.
Thật thế, ta thấy rất nhiều thành ngữ chữ Hán trong tác phẩm của Bà Huyện. Theo Wikipedia Tiếng Việt , ngày nay ta chỉ còn 6 bài thơ "thất ngôn bát cú" của Bà, ngoại trừ bài "Cảnh Thu", mà người ta cho rằng có thể là của Bà Hồ Xuân Hương. Trong 6 bài đó có rất nhiều thành ngữ chữ Hán, trừ bài "Qua Đèo Ngang".
Chúng ta, ai cũng biết Mặt Trời đã cho loài Người ý niệm về Ngày và Mặt Trăng đã cho ý niệm về Tháng. Khi Mặt Trăng trở lại cùng một vị trí đối với Mặt Trời, ta có một tuần Trăng, hay một Tháng (trung bình là 29,530 589 ngày, hay 29 ng 12 g 44 p 3 giây). Cũng vì vậy mà chữ Trăng, chẳng những tượng trưng cho vệ tinh thiên tạo của Trái Đất mà còn tượng trưng cho Tháng.
Ca Dao, Tục Ngữ, Thi Ca... đã chứng minh chuyện đó :
Bởi thương nên ốm nên gầy,
Cơm ăn chẳng đặng sầu đầy ba trăng.
Ngó lên sao mọc như giăng,
Thấy em có nghĩa mấy trăng cũng chờ. (Ca Dao).
Ba trăng là ba tháng. Mấy trăng là mấy tháng...
. Đào Văn Tiền :
Xóm Trám thường gây sự tò mò. Cạnh xóm Trám là xóm Nổ, xóm Khống, xóm Vòi. Có lẽ chỉ có xóm Trám mới có cái tên thật nhất. Ta ngỡ rằng xóm được tạo lập từ một vạt rừng Trám. Con người đến, dựng lán làm nhà ở ngay dưới gốc Trám. Nghiễm nhiên rừng trám trở thành phụ kế sinh nhai. Phần đất cao của làng là những đồi gò thấp vùng trung du chạy dọc theo một láng nước, xưa là vùng rừng um tùm cây quả. Chuyện xưa kể rằng, giữa thời khói lửa Cần Vương, Lưu Vĩnh Phúc trên đường hội nhập với quân Hoàng Kế Viêm đánh vào thành Hà Nội, có đóng quân ở nơi này. Quân lính ở dưới hầm. Nóc hầm lát một tầng gỗ lim chắc chắn lấy ngay ở vạt rừng gần đấy. Nay dân đào giếng, làm móng xây nhà vẫn thường xâm vào vùng hầm có những cây lim thuở ấy. Dân xã khi đào con kênh lớn, đắp bờ giữa khoảng đồng chiêm bao la cũng gặp vô số những tầng cây to đã đen lại, có màu thau. Xem thế thì một xóm có toàn cây Trám là có thật. Khu gò nhỏ ngoằn ngoèo quen gọi là Mả Mít, trước kia chắc là một vùng mít. Vào độ tháng 6, tháng 7 mùa mít chín râm ran tiếng quạ.
Người ta đến chủ yếu là để xem trò. Gọi là trò nhưng không có cốt trò liền mạch. Hoặc vẫn là trò nhưng không thành truyện.
(...) 
"Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè".  Vâng ! ăn chơi, cờ bạc, hội hè ròng rã suốt ba tháng trời như thế , chỉ có mà treo niêu. Chắc các cụ ta xưa chỉ mượn chén rượu xuân mà nói quá lên cho vui, cho quên đi những lam lũ quanh năm để làm ra củ khoai, hạt thóc. Còn hội lớn, hội nhỏ, thì nơi này nơi kia tháng nào cũng có, nhưng hội chính cũng chỉ diễn ra trong một, hay vài ba ngày thôi, mà cũng không phải đợi đến tháng ba. Ngày xưa làm vụ chiêm, tết đến, xuân về  cấy xong, cỏ lúa xong là các cụ ta đã vào hội. Như  ở  tổng Hiền Quan này, từ  trung tuần tháng giêng hội làng đã mở : ''Mười một Hương Nha
Mười hai  Gia Áo
Mười ba Hội Hiền''.
. Trần Kiêm Đoàn :
Nếu chọn một số tròn để ghi lên cột mốc thời gian của những mùa Xuân lạc xứ, xa nhà thì tôi sẽ đề số 35/30 trên cột mốc năm nay. Đây không phải là số tuổi chín muồi của một cặp vợ chồng lý tưởng; cũng chẳng phải  là hai con số cặp kè của sự phân chia bí ẩn nào đó.  Nó chỉ đơn giản như những mùa xuân qua đếm bằng cuốn lịch trên tường và tóc bạc trên đầu. Con số đó là dấu chỉ của dòng thời gian nhớ nhớ, quên quên:  35 năm sống trên quê mẹ và 30 năm sống ở quê người.  Ở tuổi về hưu,  một người sống gần trọn đời giữa hai thế giới.  Người ấy sẽ là ai ở giữa mùa Xuân?
Tôi tự vẽ chân dung mình.   Rướn người, cố nhìn mình thật kỹ trong gương.  Người xưa nói "tâm viên, ý mã", nghĩa là tâm thay đổi chuyền cành nhanh như vượn; ý  lao vun vút như ngựa chạy đường xa.  Thế nhưng tâm lý con người vẫn không chạy đuổi kịp với thời gian...
Người trong gương, ông là ai thế?!
. Nguyễn Thụy Kha : 
Mùa thu 1987 là mùa thu Hữu Loan ra Hà Nội. Chính mùa thu ấy, tôi mới thực kiến diện "người đi bộ ngược chiều". Hữu Loan vui mừng với thời đổi mới bằng việc mang ra một tập thơ mang tên "Màu tím hoa sim" với những bài thơ lừng danh một thời như "Đèo cả", "Hoa lúa", "Những làng ta đi qua", "Nguyễn Sơn", "Quách Xuân Kỳ"... Những cuộc rượu đầm đìa nước mắt của cố nhân gặp cố nhân. Những ngày ấy, khi ông ở nhà tôi, khi ông ở nhà anh Chu Thành (tức Tú Sót). Anh em hàn huyên bao chuyện không dứt. Hữu Loan cũng là một "tiên tửu". Càng say, ông càng vuốt những sợi râu cước oai phong và đọc vang Đường thi. Ông có lối dịch thơ Đường cũng khác người. Ông ngông đến mức không biết giữa ông với tiên sinh Tản Đà, ai hơn ai kém. Chất chứa trong lòng bao nhiêu ẩn ức, vậy mà tiếng cười Hữu Loan vẫn trong vang, sảng khoái. Tiếng cười của người thồ đá.
Có một đêm uống rượu khá say ở nhà ông Chu Thành, tôi dìu ông ra vỉa hè đường Bà Triệu và sau đó đi bộ về Hàng Bông. 
. Nguyễn Quốc Bảo : - Khóc Nguyễn Hữu Loan [ PDF ]

. Việt Hải :

Bản tin trên báo anglais sốt dẻo là khi đàn ông yêu nhiều hay có được nhiều bà (polygamists) thường có tuổi thọ cao hơn 12% so với những người đàn ông bình thường. Giời ơi... nghe thích quá sá thích nhỉ? Thế thì ta phải làm gì để được tăng tuổi thọ lên 118 đi chứ !

Theo kết quả nghiên cứu mới đây bên nước Anh, các nhà khoa học thuộc trường đại học tổng hợp Sheffield qua một cuộc khảo sát thực hiện để nghiên cứu tuổi thọ của những vị đàn ông đáng yêu trên 60 tuổi của 189 quốc gia khác nhau. Họ chia các quốc gia này ra làm 4 nhóm theo các mức độ, từ các quốc gia tuyệt đối chỉ có chế độ hôn nhân thủy mạc thủy chung một vợ một chồng cho đến những quốc gia còn tồn tại chế độ hôn nhân tự do, hay thuộc hệ phái đa thê, nhiều đàn bà trong đời của một ông đáng yêu.

. Trí Cang : 
Ngày xưa ở núi Tà Lơn tỉnh Cần Giọt bên Cao Miên, có hai thầy trò tu hành thanh tịnh. Kể từ ngày vị sư già lượm đứa bé bị bỏ rơi ở chân núi đem về am nuôi dưỡng đến nay đã được 19 năm. Những năm tháng tu trên núi, hai thầy trò thường vui sống hòa điệu với chim muông núi rừng. Sáng ra sườn núi hái thuốc và hoa quả, rau củ đem về ăn, chiều công phu tu tập. Cuộc sống thật an bần và thanh đạm. Vị sư tuổi vào khoảng 60. Còn chú tiểu không có họ tên, chỉ biết thầy gọi mình là Tiểu sơn lâm, một cậu bé ở núi rừng. Không có ai đùa giỡn nên chàng chỉ biết làm bạn với thú rừng như khỉ, nai, voi, thỏ… Chàng biết nói tiếng của chúng, kêu như chim, hú như vượn, rống như voi rất tài tình và chúng cũng thân thiện vui đùa với chàng như một người bạn đồng núi. Mười tám năm đã qua. Nay chú tiểu trở thành một thanh niên có gương mặt tươi sáng và thân hình vậm vạp trong thật phương phi, tuấn nhã. 
Cổ Văn

. Phạm Thảo Nguyên :

Trong thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, tại Phú Xuân và Quảng Bình (1804-1820), thi hào Nguyễn Du viết bài thơ duy nhất kể về một kỷ niệm thời trai trẻ: "Đi hái sen ở Hồ Tây, ngoại thành Thăng Long với một cô bạn gái". Lúc viết bài này ông đã vào tuổi trung niên, nhưng kỷ niệm còn tươi nguyên. Một bài thơ được một ông quan rất nghiêm trang và trầm mặc, lúc nào cũng buồn, tự nhận mình là "sầu nhân" viết ra, lại mỹ miều như một đoá sen tươi thắm nhất.
Khám phá về người bạn gái của Nguyễn Du trong bài thơ Mộng Đắc Thái Liên.
. Tâm Minh Ngô Tằng Giao :
- Thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ : ( Phóng ngưu - Thủ nê ngưu - Điệu tiên sư - Thị học [PDF])
- Thơ Nguyễn Du : Thăng Long Kỳ  I - Thăng Long Kỳ  II [PDF
. Quỳnh Chi :
Sài môn tịch tịch thử phàn hinh ,
San gia yên hỏa xuân vũ tình .
Đình hoa mông mông thủy lãnh lãnh
Tiểu nhi đề tác thụ thượng oanh

- Xuân vãn thư san gia ốc bích (Quán Hưu ) -Xuân nhật ngẫu tác  (Vũ Nguyên Hành)  - Xuân Tứ  Kỳ I / Xuân Tứ ( Kỳ II)  (Giả Chí) - Xuân hành ký hứng (Lý Hoa)Xuân oán (Lưu Bình Phương) - Thương xuân khúc  (Bạch Cư Dị)

. LaiQuangNam : 
Laiquangnam dịch tặng cho những người đàn ông Việt xa quê cuối đời lúc thúc một mình
trong lòng biết bao thương nhớ người vợ hiền thục . Thơ Bạch cư Dị


Trong một đêm trăng thi nhân thuyền dừng lại neo bến Phong Kiều, cảnh sắc nơi đây có núi Côtô, có chùa Hàn Sơn đối diện. Thấy CôTô  khách thơ nhớ lại nơi nầy trước đây đã xảy ra bao thăng trầm của lịch sử, cuộc chiến tranh Ngô Việt tàn khốc thời chiến quốc với bao nhiêu anh hùng và gian hùng , bao nhiêu người khôn và kẻ dại , và cả niềm đau của thân phận nữ nhi đan xen nhau ... 

Nhân dịp tết âm lịch 2010, laiquangnam dịch kính tặng cộng đồng người Việt hải ngoại bài thơ chữ Hán có tên "Quỳnh Hải nguyên tiêu" một tâm sự tha hương của Nguyễn Du .
"Nay ta ở phương trời này, tự thương thân cô lữ. Ai đang ở cuối trời vào đêm rằm tháng giêng này có cùng ngắm trăng tròn với ta liệu có hiểu cho lòng ta. Ba mươi năm đời dâu biển!"* .
Đấy là nỗi niềm của thi nhân Nguyễn Du gởi lại cho hậu thế qua bài thơ dưới đây
Văn học - Luận - Tư tưởng - Thời đại -Ngữ Văn

. Thảo Đường Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh : 

Ở nước Trung Hoa, từ thời Chu, Tần, (trước Chúa giáng sinh) có rất nhiều học giả ra đời, mỗi nhà đều có viết sách, trình bày học thuyết của mình, với mục đích sửa đổi chế độ, mong đem lại hạnh phúc ấm no cho con người.
Số học giả ấy không phải chỉ một vài người, và số tác phẩm viết ra không phải chỉ một vài cuốn, cho nên mới gọi là Bách Gia Chư Tử, hay gọi một cách giản dị hơn là Chư Tử.
Người xưa cũng gọi Chư Tử là các tác phẩm của những nhà học giả ấy viết ra. Danh từ này được thấy dùng đầu tiên trong pho sách Thất lược.

- Bách Gia Chư Tử  (tiếp theo)  (  -Khổng Tử  - Các đệ tử của Khổng Tử   - 3. Mạnh Tử. * 4. Tuân Tử. * 5. Lão Tử.   * 6. Trang Tử.     ... )
 

. Trịnh Nguyên Phước :Tại sao lại có câu " Phiền não là Bồ đề " ? Nói như vậy chẳng phải là nghịch lý lắm sao ?
Vì phiền não (kilesa), cũng như lậu hoặc (asava), là những điều làm vẩn đục tâm thức, đưa tới hành động bất thiện (akusala), là lý do của khổ đau (dukkha). Chúng trói buộc chúng ta đời đời kiếp kiếp trong vòng sanh tử luân hồi (samsara). Tu là tìm cách dứt bỏ các phiền não đó, từng cái một, như nhổ từng ngọn cỏ dại trong một khu vườn. Nhổ được ngọn này thì ngọn kia lại mọc ! cho đến khi... Cho đến khi không còn một mẩy may phiền não nữa, thì hành giả đã đạt được giác ngộ, hay Bồ đề (bodhi), tức là trở thành Phật, gọi là A La Hán theo truyền thống Nguyên thủy. Đồng thời tự giải thoát (moksha) ra khỏi sanh tử luân hồi, và đạt được Niết Bàn (nibbana).
Như vậy " phiền não " đối ngược lại với " Bồ đề ", và  " luân hồi " đối ngược lại với " Niết Bàn ", cũng như " trắng " với " đen ", " thiện " với " ác ", v.v. ; khi có cái này thì không thể có cái kia. Nếu lấy hình ảnh làm tượng trưng, thì phiền não là bùn lầy, mà Bồ đề là hoa sen, bùn lầy bùn lầy, mà hoa sen hoa sen, không thể nào lẫn lộn vàng thau được. Nếu " phiền não là Bồ đề " thì chẳng còn lý do gì để tu Phật nữa : ăn chay, giữ giới, tụng kinh, ngồi thiền làm gì, khi mà phiền não đã tự nó là Bồ đề rồi, chẳng làm gì rồi cũng thành Phật !
Vậy thì, tại sao lại có câu lạ lùng như vậy, đi ngược lại với lời dậy nguyên thủy của đức Phật ? . Thị giới dịch : 
Quan điểm Phật giáo về đời sống đạo đức của người tại gia là một chủ đề rộng lớn được đề cập rất nhiều trong những lời dạy của đức Phật. Hiện nay có rất nhiều người băn khoăn về vấn đề đạo đức nói chung, có thể vì đạo đức đang trên đà truợt khỏi sự quan tâm và cách cư xử của nhiều người một cách nhanh chóng.
Những Vấn Đề Đạo Đức
Trước khi khảo sát quan điểm Phật giáo về đạo đức, chúng ta cần hiểu một cách tổng quát về ý nghĩa từ đạo đức. Từ nầy gắn liền với sự phân biệt giữa đúng và sai, thiện và ác trong hành động, ý muốn và tính tình. Nó liên quan đến bản chất và sự áp dụng luân lý trong đời sống. Ý thức đạo đức là khả năng hiểu được sự khác biệt giữa đúng và sai. Những khái niệm về đạo đức là những quy định liên quan đến việc khen hay chê cách xử thế, hợp luân lý hay không hợp luân lý, hoặc những lề luật cho cách cư xử đúng.
Sơ tâm hay tâm ban đầu là cái tâm thuần phát chưa bị đóng khung với những định kiến hay sở tri. Trong quá trình xây dựng bản ngã, chúng ta tạo ra những cái khung tâm thức và nhốt chúng ta vào, như con tằm làm kén để tự nhốt mình. Chúng ta đánh mất cái tâm ban đầu, nhìn, thấy và xây dựng thế giới qua những cái khung tâm thức đã được tạo ra đó.

Cuộc khủng hoảng hiện nay kêu gọi chúng ta thay đổi cách nhìn về thế giới để có thể thay đổi cơ cấu xã hội của chúng ta, cứu chúng ta ra khỏi sự lo âu triền miên và sống hạnh phúc hơn. Theo Frances Moore Lappé, sơ tâm sẽ giúp chúng ta nhìn rõ những vấn đề của chúng ta để vượt qua nỗi lo âu hiện tại đã làm cho chúng ta xây dựng xã hội trên quả địa cầu theo hướng tàn hại thiên nhiên và làm cho chúng ta mất đi hạnh phúc. Sau đây là kinh nghiệm của bà về sơ tâm trong quá trình tìm hiểu nỗi lo sợ về thiếu hụt trong nền văn hóa Tây phương.

. Langlet Philippe:
(Sách bằng tiếng Pháp của Langlet Philippe, Giáo sư Đại Học Paris 7 , cựu Giáo sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn)
Le Bouddhisme des Vietnamiens n’a pas suscité assez d’attention : il a souvent paru seulement un des aspects régionaux de la civilisation chinoise, plus ou moins altéré par les anciens cultes et par des influences venues du Sud, et de toute façon sans intérêt majeur pour ceux qui cherchent le plus souvent une perception globale et une pure doctrine dans les livres. La pauvreté générale, aggravée par le régime colonial et les guerres contemporaines y a été pour beaucoup, laissant la modernisation mentale et l’entretien des pagodes insuffisants. Construites en matériaux légers à renouveler de temps en temps, fondues dans le paysage, peuplées d’une iconographie souvent foisonnante et apparemment stéréotypée, toujours lieux de cultes, elles ont moins attiré les archéologues français disposant des moyens d’agir, que les ruines et statues cham et khmer en blocs de grès, souvent libérées par abandon . 
Pourtant voilà presque un siècle, depuis les années 1920, que le Bouddhisme vietnamien a connu une belle renaissance, parallèlement à l’essor de la pensée positiviste moderne. Cette coexistence a été favorisée par ses caractères anciens. Pour mieux comprendre la nouvelle civilisation du Việt Nam, il importe donc d’y observer les rapports entre la religion et la sagesse dans l’héritage culturel . (...)
. Thuần Phong Ngô Văn Phát : 
Bài viết sau đây là của nhà văn hóa Thuần-Phong Ngô-văn-Phát, giảng sư ĐHVH SG , Ông Thuần-Phong viết về một buổi làm việc của Ủy ban điển chế danh từ khoa học mà G.s. Chủ-tịch trong bài là giáo sư LÊ VĂN THỚI.
Giáo sư thực thụ LÊ VĂN THỚI ,người Gò Dầu ,Tây ninh , là Tiến sĩ hóa học tốt nghiệp tại PHÁP, là cựu học sinh Petrus Ký SG, là nguyên viện trưởng viện Đại học Saigòn cho đến năm 1963 .Giáo sư đã từng đảm nhận chức Giám đốc Trung tâm nguyên tử ĐÀ LAT.Sau ngày này (1963) , Giáo sư chọn niềm vui mới cho mình bên cạnh công tác giảng dạy tại trường ĐHKHSG là dồn nổ lực của mình vào niềm tin " văn hoá " , chỉ có văn hóa là muôn đời , con đường giáo sư chọn là hình thành "nhóm tự nguyện" với sự giúp đở của Bộ Quốc gia Giáo dục thời VNCH, làm sao có thể tạo ra qua dịch thuật những từ mới có tính cách chính quy, họp thức mà ngôn ngữ Việt cần dung nạp vào các lãnh vực khoa học, nghệ thuật ... , làm sao và cách nào để tạo ra từ mới mà mọi người đều có thể vui vẻ dung nạp nó một cách tâm phục khẩu phục. Giáo sư theo đuổi công trình này cho đến lúc mất dù nơi công khai hay chỗ riêng tư.
. Bùi Thụy Đào Nguyên : 
Hơn ai hết, Ngọc Vạn thấu hiểu dãi đất miền Trung, nơi bà đã sinh trưởng, cuộc sống của người dân khốn khó như thế nào. Cho nên dù tuổi mới đôi mươi lại phải dấn thân đến chốn đất khách quê người rồi lâm cảnh chồng chết sớm, con trẻ bị giết hại, triều chính đầy dẫy những thế lực cùng tham vọng mù quáng, đen tối... trái tim bao dung, không bao giờ biết vun vén ấy; phải luôn dằn nén mọi nỗi đau riêng để hoàn thành sứ mạng vì dân tộc của mình.
Nguyễn Phúc Ngọc Vạn, gọi tắt là Ngọc Vạn, không rõ năm sinh năm mất, là con gái thứ hai của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (ở ngôi: 1613-1635). Nhiều tài liệu trước đây thường ghi tước vị của bà là công chúa, nhưng thực sự là công nữ, vì bà chỉ là con của chúa Nguyễn.
Võ Công Liêm :
Có phải Nguyễn Trãi (1) sinh ra để hy sinh, để nhận lãnh trách nhiệm làm người trong giai đoạn đấu tranh dành độc lập cho đất nước rồi cuối cùng nhận lãnh cái chết oan khiên như thế ?
Đó là sinh mệnh của kẻ sĩ phải chấp nhận như một mệnh lệnh của "trời ban".Nguyễn Trãi nhận thức được biến thiên đó.Nỗi oan khiên ấy được phát hiện từ khi bước vào đời cho tới khi đầu lià khỏi xác. Điểm thời gian đó còn chảy mãi cho đến bây giờ,dù đã được minh oan hay đã được phục hồi phẩm trật xứng đáng với người.Sự sáng tỏ còn tiếp tục theo đuổi với thời gian,dù sự kiện đã đi vào quá khứ nhưng vẫn không phôi pha với lòng người.Một hành quyết đau đớn,một bản án lệch lạc,vu khống,buộc tội, thất nhân tâm của những con người nắm quyền hành; do cái lòng cố vị đầy tham vọng vô thức.Tranh chấp với người tức là tranh chấp với đời.Thời gian không dừng lại ở điểm ấy.
(...)


. Nguyễn Nam Trân (biên dịch) :

- Tìm hiểu nội dung và xuất xứ Thập Ngưu Đồ    /      [PDF]
- Lịch sử Thiền Tông Trung Quốc [HTML]  /  [PDF]
- Lịch sử Thiền Tông Nhật Bản
Thơ - Họa
. Lâm Thị Mỹ Dạ : 
Như lúa hỏi đất
Anh có tốt không ?
Như cây hỏi gió
Anh có tốt không ?
Như mây hỏi trời
Anh có tốt không ?
Trời anh mênh mông
Mây em bay lượn
Gió anh bao la
Cây em ve vuốt
Đất anh thẳm sâu
Lúa em cúi đầu
Nhưng sao vẫn hỏi
Day dứt trong lòng
Anh có tốt không ?
- Em sợ  - Anh có tốt không  - Anh đừng khen em - Cho anh tựa vào em -
. Cát Hoàng : 
Đường chân trời ở Bến Tre là dung nhan dừa xanh
những dãy lụa sông xao xao mắt mây sóng nắng
chưa đi xa người đã nao lòng
sâu lắng dịu dàng phù sa châu thổ
điệu lý miệt vườn ngọt mát nước dừa xiêm
khách xa đến muốn mang cả tiếng chim
cùng màu xanh về làm quà cho trẻ
- Chưa xa đã nhớ  - Mưa cuối mùa - Bìm bịp - Đêm Hà Tiên
. Nguyễn Chính : 
Em vẫn đi tìm cho mình hạt kim cương
Lấp lánh, long lanh...
Đường vời xa mà tóc thì sắp bạc
Hạt kim cương của em đang ở nơi nào ?
Ngày xưa...
chúng mình
Cởi trần
Chân đất
Cứ thế mà dẫm bừa lên cát
Tiếng cười giòn tan
Chuỗi kim cương tuổi thơ
Mình đâu nhận biết

Những hạt kim cương em thấy trong mơ
Không có ở đời thường
Nhưng, có cái ở đời thường
Trong mơ, lại làm em choàng tỉnh
Nếu em bảo :
Tiếng gà gọi ngày lên
Không mới !
Thì xin em cứ việc cả đời
Đi tìm hạt kim cương.

- Hạt kim cương - Cây đời  - Ghen  - Tìm nhau  - Đá bia  - Nói với con về một dòng sông  - Cái nghèo
. Quỳnh Chi :
Hướng dương tươi thắm muôn hoa
Sớm mai hé nở chung hòa niềm vui
Thủy tiên riêng một góc trời
Mải mê soi bóng mình nơi đáy hồ
Ngọc tuyền trắng nuốt làn da
Môi thơm chúm chím điểm tô son hồng
Dịu dàng nắng gọi sau lưng
Cùng muôn hoa góp mùa xuân cho đời
- Hoa Thủy Tiên  - Tuyết đầu mùa - Chiều đông
. Thanh Thanh : 
Thôi, mầy! Rán nhịn cho quen!
Chính tao cũng khổ đòi phen với mầy!
     Ai  làm  cho  lá  lià  cây,
Cho chim xa tổ, chúng mầy xa nhau ?

     Đừng buồn, đừng giận gì tao
Nếu mầy đã... những lần nào hụt vui!
     Mầy là chiếc gậy thằng đui,
Tao là ý-thức, rút lui -- đúng đường!

- Chuyện kín   - Lời tình mùa xuân (dịch thơ Ngọc An) 
. Bùi Văn Bồng :
Cá đồng canh khế, lươn um
Càng thương trái khế vàng hươm trên cành
"Con gà cục tác lá chanh
Cá rô rạch ngược lên cành khế chua..."
Lời ru làm dịu nắng trưa
Ru cho cành khế gió đưa xạc xào

Mẹ ngồi bện chổi tàu cau
Kể về câu chuyện sang giàu khế chua
Kể rằng : " Ngày xửa ngày xưa...
Ăn một trái khế chim đưa cục vàng..."
Mẹ khuyên nết ở đàng hoàng
Hãy xa lánh với lòng tham trên đời...

- Cây khế   - Vũ khúc phố   - Nụ đào Nhật Tân   -  Hái một vì sao
. Thế Dũng :
Ta gặp nhau giữa Thành phố biển
     Cát, nắng, gió
Và, ánh nhìn thăm thẳm
     đau đáu tìm về ...
                       hoài niệm dấu yêu!

Ta bên nhau
Vai chẳng thể kề vai
Sóng cứ vỗ vào bờ đau đáu
Con dã tràng cứ vô tình xe cát
       Và, tình yêu - viên ngọc mãi tinh khôi ...

- Tình cờ  - Vô đề   - Ngày không anh
. Trần Hạ Tháp : 
Chim 
Bói cá
Xớt ngày quê cũ
Mắc 
Trên cành 
Kĩu kịt tre xanh
Giọt 
- Bên bờ soi mộng
. Hoài Ziang Duy : 
Anh viết cho em bài thơ viết ngược
Bởi đời đâu như nước chảy xuôi dòng
Năm có qua, ngày thời như chiếc lá
Buồn nào hơn cô độc buổi tàn đông

Ta yêu em, một thời yêu khổ nhọc
Ở một đời chăn gối chiến tranh qua
Khi ngó lại mối duyên tình tơ tóc
Làm sao quên tuổi nhỏ ở quê nhà

- Chung một nỗi niềm
. Hà Nguyên Dũng :
Những tháng ngày khô rơi đầy ngôi đời tôi
tôi xòe bàn tay làm cây chổi tàu cau quét dọn
vì mùa xuân nhắn tin sẽ theo chuyến bay thời gian quá cảnh vào chơi
không lý nào tôi lại không tiếp đón !

Mười tám nghìn sáu trăm mười lăm ngày
tôi ôm hoài mỏi rịu đôi tay
bàn tay tựa chiếc lá đu đủ
làm những ngày xuân vui lọt bay !

- Cuối năm dọn đời   - Sầu lạnh
. Hoàng Hoa :
Thuở nắng hoang vàng hong tóc rối
Gió cuồng thổi loạn aó thư sinh
Bất chợt em về trong gió lạnh
Mang cả mùa Xuân trong mắt xanh.

Em nở nụ cười tươi  sắc Xuân
Không gian hoài niệm quá mênh mông
Phương trời em đến xa xôi quá
Cách biệt nghìn trùng - thêm nhớ mong

- Mùa xuân không ở lại Cali
. Võ Công Liêm : 
tiệm mở cửa lúc 5. 00 giờ sáng
chị hàng xóm vạch áo cho con bú chiều hoen nắng
hành khất mù băng qua trục lộ đèn xanh đỏ
ni cô Diệu Trí cởi xe máy về thăm mẹ ở Bà Quẹo
tại sao mình ngủ lại đêm nhà bà dì ?

em là gái giang hồ ở đường Catina hay Đồng Khởi gì đó ?
tôi cầm trong tay cái bánh đa
chiếc mũ phở bốc khói
những con qụa đen trên giây điện đường Ngã Bảy
đêm trắng nằm dưới hầm viết hồi ký
linh mục ngồi ăn phở tái:rau húng ngò gai giá sống

- Đêm trắng    - Xin em một lần
. Tuyền Linh :
Trời bên ấy Thu vàng còn ủ mộng ?
Ở bên này Đông đã quấn khăn tang
Hai hàng cây se lá trụi bên đàng
Nắng nghiêng đổ rọi soi vùng ký ức

Vẫn con dốc Duy Tân dập dìu tha thướt
Áo học trò bướm lượn trổ đường hoa
Em có bao giờ nhớ Đà Lạt năm xưa ?
Hoa quỳ dại hai bên đường vẫn đợi

Đành quên sao những tháng năm phơi phới
Suối hẹn hò mây phủ bụi sương giăng
...

- Đỉnh Dốc Sương Mù  - lục bát tháng 12
. Sóng Việt :
Ai bảo đôi mắt em 
Chứa cả một giòng sông
Cho hồn anh lênh đênh
Lang thang hoài không bến

Ai bảo đôi mắt em
Chứa đam mê cao ngất 
Kéo anh vào cơn lũ
Cuộn sóng tình đảo điên

- Ngỡ  - Ai Bảo Đôi Mắt Em ( Võ Tá Hân phổ nhạc )
. Đỗ Thị Mộng Giang : 
Hạt sương lóng lánh vương cành lá
Buổi sáng choàng mình đón ánh dương
Tia nắng ban mai hồng thắm nụ
Đài hoa chớm nở nhẹ nhàng hương

Mẹ già tựa cửa ngắm hoàng hôn
Tưởng bóng con về nơi cuối thôn
Viễn xứ phương nào con có biết
Mẹ buồn hiu hắt cả tâm hồn

- Xuân viễn phương  - Mùa xuân hy vọng
Trở Về  ]