Chim Việt Cành Nam Trở Về  ]


 

 
 
Số 34 / 01 - 02 - 2009
 
Quê Hương - Phong tục 

. Nguyễn Dư  : 

Trâu của ta muôn màu muôn vẻ. Vàng, đen, trắng, đỏ, xanh. Nói như vậy là nhầm hổ với trâu rồi ! Hổ có nanh có vuốt, lại thạo luật rừng, làm cho thiên hạ phải sợ, phải tôn thờ, tô vẽ màu mè. Còn lũ trâu nghễnh ngãng kia thì cần gì phải tô hồng chuốt lục. Làm gì có chuyện trâu nhiều màu !
Chàng không tin thì em giảng cho mà nghe.
- Tục truyền nhà sư Không Lộ dùng phép thu hết đồng của phương Bắc, bỏ vào một cái túi, mang về nước đúc thành quả chuông lớn. Chuông đánh lên, tiếng vang đến tận bên Tàu. Trâu con nghe tiếng, ngỡ là mẹ gọi, liền chạy sang nước ta tìm mẹ. Đường trâu chạy lún thành sông Kim Ngưu (Trâu vàng). Chỗ trâu sục sạo tìm mẹ, đất bị sụp, tạo thành một cái hồ. Đó là hồ Kim Ngưu (Hồ Tây ngày nay)..
. Thu tứ :
Nói phở không thôi, gần như ai nấy đều hiểu là nói phở bò. Trong bát phở, con bò "đá" bay con gà. Chuyện đáng lạ, vì thịt của con gà nói chung "thân" với cái lưỡi Việt Nam hơn nhiều.
Ỷ có thịt thân, nó dám... cục tác:
"Con gà cục tác lá chanh".
Ngoài gà, còn hai con nữa cũng cả gan léo nhéo đòi gia vị:
... Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng".
Ðó, ba con thịt thuộc loài cầm thú cơ bản nhất của ta. (Kể ra con vịt có "cạc cạc" đòi gừng chắc cũng không đến nỗi bị bà mắng, nhưng nó hay ở ngoài đồng, xa nhà. Mặc nó.) ...
. Thu tứ
Nói nguồn đạm chính trong thực đơn truyền thống là cá thì bây giờ nghe khác nào "mặt trời mọc ở phương đông". Ấy vậy mà mặt trời xưa vốn không mọc ở phương đông, người Việt Nam xưa kia vốn không ăn cá mà ăn ốc ăn cua!

Xưa đây không phải là thời tiền chiến trong tiểu thuyết xã hội của Tự Lực Văn Ðoàn, của Nam Cao v.v. đâu. Hồi đó tuy dân ta có mò cua bắt ốc, có ăn bún riêu bún ốc (bây giờ vẫn ăn!) nhưng nguồn đạm chính đã là các loại cá từ lâu lắm rồi.

Nói xưa đây là nói từ khoảng mười mấy ngàn năm trước cho tới khoảng năm, sáu ngàn năm trước, tức đại khái là cái khung thời gian tồn tại của văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn. Theo Chử Văn Tần, "cua ốc (...) là nguồn thức ăn (...) chủ yếu (...) của người Hòa Bình"(3). Theo Lê Xuân Diệm, đến thời văn hóa Bắc Sơn "việc mò cua, bắt ốc hầu như vẫn (...) là hoạt động đem lại nguồn thực phẩm quan trọng. Tàn tích của loại động vật nhuyễn thể này hầu như tràn ngập (...) các di tích cư trú"(4). ...

. Thu tứ
... người Việt Nam không đợi đến lúc có chùa Một Cột, có chùa Bà Banh mới biết trầm trồ cái khả năng kỳ diệu của sinh thực khí. Dương vật - âm vật và hành vi giao phối đã hiện diện trong nhiều nghi lễ dân gian từ rất lâu ở khắp Đông Nam Á. Trường hợp người Việt cổ, hình ảnh bốn cặp trai gái đang giao hoan trên nắp thạp Đào Thịnh là một bằng chứng. Có lẽ cũng từ rất sớm, tín ngưỡng phồn thực ở Bắc bộ đã phát triển theo hướng nhất định.

Linga-yoni tiếng Việt xưa là nõ-nường. Nõ có nơi gọi là dò (hội cướp dò ở xã Gia Thanh, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú). Theo Viện Văn hóa Dân gian [6], ở trung du và đồng bằng sông Hồng từng có rất nhiều lễ hội cổ truyền mà nội dung liên hệ chặt chẽ với tục "thờ" sinh thực khí. Đa số những lễ hội này tập trung tại Phong Châu (nơi có đền Hùng). Số còn lại rải rác ở các tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Hải Hưng v.v., nghĩa là hầu khắp xung quanh Hà Nội.

Nõ-nường khác linga-yoni...- Có thần và thần 

.Cát Hoàng : 
Mỗi Quốc gia hoặc vùng, miền ngày Tết đều mang đặt trưng riêng.Ở đây chỉ xin ghi lại đôi nét cảm nhận về phong tục Tết Việt Nam mang đặc thù ở miền Nam nói chung và của Bến Tre nói riêng.
Ngay từ tháng chạp bà con mình đã tất bật chuẩn bị đón Tết. Hộ buôn bán lo trữ bánh mứt, trà rượu, áo quần,... để phục vụ; hộ nông thôn lo thu hoạch mùa vụ lúa, khoai, cây trái,... và mọi người cùng chuẩn bị đón Tết.


. Hoàng Tiểu Ca : 

Ngày còn nhỏ tôi đọc tác phẩm "Rừng Mắm" của nhà văn Bình Nguyên Lộc mà tôi cứ ngỡ ông muốn ít nhiều nói về những món mắm miền Nam ê hệ Nhưng thật sự không phải vậy. Truyện nói về cây mắm mọc lên hằng hà sa số. Nó tạo ra sự ích nối tiếp về sau qua câu chuyện trao đổi giữa hai ông cháu như sau:
"Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được...
. Antony Ducoutoumany : 
Au revoir le Rat, bonjour le Buffle ! Nous allons donc quitter l'année du  Rat pour entrer dans le deuxième signe de l'astrologie asiatique, celui du Buffle (de Terre, cette année) qui commence ce 26 janvier, pour se terminer le 13 février 2010, nous faisant entrer dans l'année du Tigre Canh Dần ensuite.
Thơ
. Chu Vương Miện : 
Có kẻ đứng không nom trời đất
Toàn là mỏm nuí chả vừng mây ?
Trần ai 3 chuyện mòn cả miệng
Trơ ra 1 thân thế vơi đầy ?


. Nguyễn Thế Tài :

em về rũ áo tà huy
sương mai hóa ngọc, xuân thì nở hoa
phù vân dòng suối tóc ngà
cuốn theo hư ảo nhạt nhòa chân mây
. Cát Hoàng : 
Ta chết đồi LIỄU HẠNH NGUYÊN
nhạc thông đưa với hương nguyền bay theo
bạn bè cười rũ trong veo
mimoza hát đỉnh đèo thong dong
có người đòi nợ vợ chồng
kiếp nầy thôi chớ chờ mong kiếp nào
chơi cho cây thêm xanh màu
sống cho trọn vẹn vì nhau một đời
...
. Quỳnh Chi : 
Làm sao hiểu được Cõi lòng 
Rộng chừng nao để thước vàng đem đo 
Lối vào cửa ngõ nơi mô
Biết còn bỏ ngỏ mà mơ tìm vào 
. Thanh Thanh : 
Em xem giùm mắt anh 
Có cái gì là lạ 
Vừa xanh như trăng thanh 
Vừa hồng như lửa hạ 
Vừa vàng như nắng hanh 
                                     --->Mắt anh
. Bùi Văn Bồng : 
Một dòng thơ tràn ánh lửa
Lặng đem hơi ấm nhen lòng
Phút thôi, ngoái nhìn năm cũ
Tươi nguyên cành biếc nụ hồng
. Trần Văn Lương : 
Mùa hạ gãy, nắng hai bờ cách biệt,
Bến không người, đò lết bết chờ sương. 
Lá mồ côi vạ vật ngủ ven đường,
Dế nhẹ tấu khúc đoạn trường não nuột.
. Lê Huỳnh Lâm : 
mưa vỡ gương mặt người tình
bình minh lấp lánh từng ngọn cỏ
ướt cuộc hẹn hò
người đàn bà chạy về phía đêm
giọt giọt hoa chảy mềm mặt đất
rưng rưng khoé mắt
ngước nhìn
những nốt nhạc rơi từ cõi trời
...
. Tâm Minh Ngô Tằng Giao  chuyển ngữ: 
- Triết lý tình yêu  (Love's Philosophy/ Percy Bysshe Shelley)
. Hà Nguyên Dũng :
Những tháng ngày khô rơi đầy ngôi đời tôi
tôi xòe bàn tay làm cây chổi tàu cau quét dọn
vì mùa xuân nhắn tin sẽ theo chuyến bay thời gian quá cảnh vào chơi
không lý nào tôi lại không tiếp đón !
. Trần Hạ Tháp : 
Nước vẫn chảy bao lần qua đó
Hến ngậm bùn sống đáy lòng sông
Loài há miệng chỉ khi còn là vỏ...

Đâu cần ngọc "châu trầm hải để"
Bảy trăm năm vẫn hến, hàu, sò 
Ơn lặn hụp thương tô cơm người Huế

. Đỗ Thị Minh Giang :
Đêm thanh tình tự vườn hồng
Trăng treo cành liễu đôi lòng vấn vương
Dìu nhau đi trọn con đường
Trần gian chung lối yêu thương suốt đời
Xưa anh trôi nổi mây trời
Nay anh đàn khúc chơi vơi tâm hồn
. Trương Ngọc Thạch:
Cũ mới là gì các cụ ơi.

Vừa Tết tuần qua các cụ ơi,
Ngoảnh lại thì nay đã cũ rồi,
Tiếp tục đi cầy thêm năm nữa,
Năm sau lại có Tết mới thôi.

Truyện ngắn - Ký - Tạp văn
. Trần Văn Khang : 
- Cháu xin Bác sĩ ... cho toa ... mua thuốc ngừa thai.
Nói xong, cô rưng rưng nước mắt. Quang thật sự ngạc nhiên. Trong bao nhiêu năm làm nghề y sĩ, anh chưa gặp thân chủ nào xin thuốc ngừa thai mà phải khóc. Anh ân cần nói với cô:
- Ở tuổi của cháu, có bạn trai, dùng thuốc ngừa thai là chuyện thường bên Mỹ và có lẽ bây giờ cả ở bên Việt Nam nữa, sao cháu lại khóc?
. Hà Mai Kim : 
Sự di chuyển trở nên càng ngày càng khó khăn nguy hiểm. Nay đắp mô, mai gài mìn! Thôi năm nay con khỏi về ăn Tết với Ba và các em. Các em con sẽ thắp hương lên bàn thờ Má dùm con. Con cứ an tâm ở dưới đó mà học. Học thật giỏi là đã trả hiếu cho Ba rồi vậy! Tin chắc Má con cũng sẽ ngậm cười nơi chín suối!

Đó là nội dung bức thư của ba tôi, mà tôi đã nhận được tuần trước. Tôi còn nhớ như in, từ nét chữ run rẩy đến những dòng ô được kẻ một ngay cách ngay ngắn. Tôi chưa bao giờ ăn Tết xa gia đình. Nếu phải xa, thì đây là cái Tết đầu tiên!

. Tràm Cà Mau : 
Ông cụ Lê đã tám mươi lăm tuổi, vẫn còn khỏe mạnh. Cụ bà cũng tám mươi ba tuổi. Họ sống trong một căn nhà tiền chế có ba phòng ngủ và hai nhà tắm, rộng rãi... Hai vợ chồng ngủ riêng, mỗi người một phòng, cái phòng còn trống dành cho con cháu, bạn bè ở xa về chơi. Cụ bà nhất định ngủ riêng. Cụ ông nói với bà con rằng, cụ hay thức khuya đọc sách, báo, và nghe nhạc, nên cụ bà không chịu được, phải ngủ riêng. Cụ bà thì nói thẳng "Ông già, nhưng phá lắm, làm tôi mất ngủ". Cụ bà lãng tai, nên thường nói lớn tiếng như thét gào.
Tôi từ San Francisco về, ghé thăm hai ông bà cụ Lê. Thấy ông đang xem tờ báo Mỹ, trong đó nhiều trang quảng cáo in hình những thiếu nữ da thịt hồng hào, lồ lộ, ăn mặc ít vải, bụng ngực hở hang, chân tay dong ra hớ hênh... Trong tình thân mật, tôi hỏi cụ:
- Bác cũng còn thích xem các thứ nầy nữa? Có còn "làm ăn" chi được nữa không? Bác "chay tịnh" đã bao nhiêu năm rồi?
. Phạm Vũ Thịnh (dịch): 
Nếu xếp hạng người ít được chú ý đến nhất trong tất cả mọi người làm việc trong thành, thì không ai tệ bằng Saji Isoroku. Anh ta lại làm trong tổ Giữ cờ, là chỗ chẳng có chút gì nổi bật cả, mỗi ngày cứ cắm cúi nhìn xuống đất mà đi đi về về từ dãy nhà của tổ đến thành, đều đặn suốt mười năm ròng, đến nay đã 36 tuổi. Vợ chẳng có mà con cũng không. Mà đâu phải ngay từ đầu không lấy được vợ! Khoảng tuổi 25, anh cũng đã cưới vợ rồi, nhưng người vợ đầu tiên ấy bệnh chết, sau đó, hai người vợ kế tiếp lại theo nhau chạy trốn mất. Phải nhận rằng Isoroku là gã đàn ông có vận rủi về đường hôn nhân.
. Phạm Xuân Hy (dịch) : 
Mỗ lúc hồi còn nhỏ để tóc trái đào, từng được nghe nói đến ngôi chùa Kim Trúc Tự ở Dương Châu, nhưng không hề biết rõ gốc gác do lai long mạch thế nào. Chỉ mới năm ngoái, may gặp được quan Đồn Điền Tư Mã là Dương Tuệ Sinh, người trong thân tộc, ngẫu nhiên đem chuyện Kim Trúc Tự ra kể.
Câu chuyện kể rằng:
Cuối đời Minh mạt, ở đất Hoãn, tức tỉnh An Huy ngày nay, có người tên là Tiêu Linh Oai, tuổi còn trẻ, nhưng tính tình hào hiệp, hay bênh vực kẻ yếu thế. Vì vậy nên thường hay mua oán kết thù với người đời, bị cừu nhân ám hại, suýt mạng vong, phải bỏ xứ mà đi, mai danh ẩn tích ở đất lạ xứ người mất hai năm liền.
. Quỳnh Chi (dịch):
Tôi nằm mơ thấy mình đang cõng một đứa bé lên sáu. Nó đúng là con tôi. Nhưng lạ một diều là chẳng biết từ lúc nào nó đã bị mù, đầu thì cạo trọc.  Tôi hỏi  nó rằng mắt mày bị mù từ bao giờ thì nó trả lời rằng đâu như là từ ngày xưa ấy. Giọng nói đúng là của trẻ con không lầm vào đâu được, nhưng giọng điệu cứ như là người lớn. Mà còn như là nói với người ngang hàng nữa chứ.
Chung quanh là ruộng lúa non. Lối đi hẹp. Thấp thoáng có bóng cò trong đêm.
Có tiếng nói trên lưng :
-Đang đi qua ruộng đấy nhỉ
Tôi ngoái lại hỏi:
-Sao con biết ?
Nó đáp:
-Thì chẳng có tiếng cò đấy là gì.
Tức thì bấy giờ cò mới kêu lên độ hai tiếng.
. Quỳnh Chi (dịch):
Ngày ngày tôi đi đón người ở một ga xép ấy trên đường tàu hàng tỉnh. Đón một người chẳng biết là ai.
Tôi đi chợ xong, ra về, thế nào cũng ghé vào nhà ga, buông mình ngồi xuống chiếc ghế dài lạnh ngắt trong ga, đặt chiếc làn đi chợ lên đùi, lơ đãng đưa mắt nhìn về phía cửa soát vé. Cứ mỗi lần có chuyến tàu xuôi ngược nào cập tới sân ga, cửa các toa tàu nhả ra những người là người rầm rập tiến ra cửa soát vé, sắc mặt ai nấy đều hầm hầm như giận dữ, họ chìa chiếc vé đi tàu tháng hay đưa vé cho người thu vé, sau đó xồng xộc bước thẳng tới mà chẳng thèm nhìn ngang liếc dọc, lướt qua trước chiếc ghế dài nơi tôi đang ngồi, ra tới quảng trường trước nhà ga, rồi mỗi người một ngả tản mác đi các nơi. Tôi ngồi thẫn thờ lơ đãng. Có ai đó sẽ mỉm cười bắt chuyện với tôi. Ối, thế thì sợ  lắm. Ôi, không được đâu. Trống ngực tôi đánh thình thình. Chỉ mới nghĩ thế, tôi đã thấy rợn cả người như bị giội gáo nước lạnh vào sống lưng, muốn nghẹn thở rồi. Tuy thế mà rốt cuộc là tôi vẫn đợi một ai đó. 
. Quỳnh Chi 
Ó đêm là một giống chim thật xấu xí. Mặt mày nhem nhếch như dính tương mi-xô trên mặt, mỏ chim gì mà bèn bẹt, há hốc đến tận mang tai, chân thì bước loạng choạng không đi xa được tới vài thước. Các loài chim khác chỉ nhìn thấy mặt của Ó đêm là đã ghét rồi.
Ví dụ như chim én, tuy chẳng phải là giống chim đẹp đẽ gì cho lắm, nhưng chúng cũng cảm thấy mình hơn hẳn Ó đêm. Vì vậy những khi chiều xuống, hễ gặp Ó đêm là y như rằng chúng liền ngoảnh mặt quay đi, nhắm nghiền mắt lại. Những con chim chích bé tí mà lắm mồm lắm miệng thì hễ vừa thấy Ó đêm từ đằng xa là chúng đã dèm pha:
-Hứ ! Lại dẫn xác đến. Nhìn cái bộ dạng của hắn kìa ! Thật là làm xấu mặt cả bọn chim chóc chúng ta !
-Này, lại còn cái mỏ mới to bèn bẹt làm sao ! Chắc hẳn là hắn có dây mơ rễ má với bọn ếch nhái gì ấy đấy thôi !
. Quỳnh Chi 
Thình lình, tội nhân cất giọng oang oang nói với chủ tướng :
-Thưa ngài, tôi sắp bị hành quyết, nhưng tôi bị tội đây không phải là vì đã cố tình phạm tội, mà chung qui cũng chỉ vì ngu xuẩn. Chẳng biết có phải vì quả báo hay không, mà từ khi sinh ra đời đến giờ tôi đã ngu xuẩn, làm gì cũng vụng về, cũng đoảng cả. Thế nhưng thưa ngài, ai lại đi giết một người chỉ vì người đó ngu ngốc. Như vậy không phải chút nào. Sao lại có chuyện vô đạo đức, vô lý như thế. Làm như thế mới thực là có tội là khác.
Thưa ngài, nếu ngài bảo nhất định là sẽ xử trảm tôi, thì cũng được thôi. Nhưng thế nào tôi cũng sẽ về báo oán cho xem. Ở đời hễ gây oán thì sẽ bị báo oán. Lấy oán trả oán là như vậy.
. Nguyễn Nam Trân ( dịch ):
Abe Kôbô là một trong những nhà văn hậu chiến Nhật Bản thế hệ Shôwa 30 (từ năm 1955 trở đi) có khuynh hướng đi tìm một thủ pháp mới với mục đích bắt gặp con người toàn thể như một sinh vật có tính xã hội và chính trị. Nhà văn thế hệ nầy đều muốn tìm hiểu đâu là lối sống thích hợp của con người trong điều kiện của xã hội hiện tại.

Abe Kôbô trên giấy tờ được gọi là Kimifusa theo cách đọc âm Nhật của hai chữ Hán Kôbô. Song thân gốc miền bắc (đảo Hokkaidô) nhưng ông sinh ra ở Tôkyô ngày 7 tháng 3 năm 1924. Cha ông, một bác sĩ y khoa tùng sự tại Mãn Châu. Do đó, ông lớn lên ở Phụng Thiên (nay là Thẩm Dương thuộc Trung Quốc) nhưng đã trở về nước để học thuốc và tốt nghiệp y khoa Đại học Đế Quốc Đông Kinh năm 1948. Sau khi Nhật bại trận và cha chết, ông sống cuộc đời nghèo túng nhưng vẫn cố gắng bỏ tiền túi in thơ (1947) và tiểu thuyết (1948). Không hành nghề y như cha, ông theo nghiệp văn như mẹ, một nhà giáo có đầu óc khuynh tả. Đầu tiên, ông sử dụng một bút pháp trừu tượng, xa rời hiện thực, nhưng sau chuyển qua văn phong tiền vệ với khuynh hướng đi tìm những ý tưởng và phương pháp biểu hiện mới mà trung tâm là những câu chuyện ngụ ngôn có tính khoa học giả tưởng.

. Nguyễn Nam Trân : 
Ngày nay khi nói đến thơ Nhật, người ta chỉ nghĩ đến Haiku. Điều đó không phải không đúng vì phạm vi phổ biến của thể thơ này quá rộng lớn. Tuy nhiên, thơ Nhật hãy còn là Ca dao cổ đại (Kayô), Hòa ca (Waka), Hán thi (Kanshi) và thơ mới (Shintaishi) nữa. Trong đó, Hòa ca đóng vai trò quan trọng nhất vì thừa hưởng dư ba của ca dao, tiếp nhận ảnh hưởng cổ thi Trung Quốc, phản ánh từ rất sớm mọi khía cạnh của tâm hồn người Nhật thông qua một vốn liếng kỹ thuật tu từ phong phú. Cũng cần phải nói là nhờ Hòa ca (Waka) xưa kia , ta mới có Đoản Ca (Tanka), Bài Cú (Haiku) ngày nay.

Việc giới thiệu thơ Hòa Ca, tinh hoa của văn chương cung đình thời trung cổ, do đó trở thành cần thiết để hiểu văn hóa Nhật Bản. Không thể nào hiểu một cách thấm thía Murasaki Shikibu, Bashô, tuồng Nô, kịch Kabuki, Tanizaki, Kawabata, ca nhạc mới... mà thiếu kiến thức Waka. 

. Nguyễn Nam Trân
Kỳ lân là một linh thú của thần thoại Trung Quốc, hai lần xuất hiện trong đời Khổng Tử: một lần trước khi ông sinh ra như điềm báo hiệu ông sẽ trở thành vị tố vương (vua không ngai), lần thứ hai 70 năm sau, như một con thú lạ bị người ta giết, nhân đó Khổng Tử đoán đời mình đã đến hồi chung cuộc. Nói chung, kỳ lân tượng trưng cho nhân cách phi thường của Khổng Tử.

Tanizaki và các nhà văn Nhật Bản (Mori Ogai, Nakajima Atsushi, Inoue Yasushi...) đã tìm nguồn cảm hứng hương xa trong cổ điển Trung Quốc qua hình ảnh những trang tuyệt thế như Ngư Huyền Cơ, Bao Tự, Đát Kỷ, Dương Quí Phi, Hạ Cơ...Cùng lúc, một số nhà văn Tây Phương (Gustave Flaubert, Oscar Wilde, Pierre Louys...) đặt bối cảnh các tác phẩm của họ mãi tận Jerusalem, Carthage, Alexandria..., ca tụng sắc đẹp Salammbô, Salomé và nữ hoàng Sheba. Thế nhưng, theo J.Pigeot và J.J.Tshudin, hai dịch giả Pháp và cũng là hai nhà chuyên môn về Tanizaki thì nguồn gốc của tác phẩm Kỳ Lân lạ lùng đến không ngờ. Bởi lẽ truyện này dù lồng khung trong bối cảnh Trung Quốc nhưng thực ra đã bắt nguồn trực tiếp từ hai tiểu phẩm của Anatole France nhan đề Thais (1889) và Balthasar (1886), trong đó nhà văn Pháp tưởng tượng ra cuộc gặp gỡ giữa những hiền nhân và ác nữ, cũng giống như cuộc gặp gỡ giữa Khổng Tử, bậc sư phó đạo đức lễ nghĩa của muôn đời, và nàng Nam Tử, tượng trưng cho sự quyến rũ của sắc dục và tâm địa ác độc.

Truyện thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc chuyện thiền là vừa học đạo  vừa thưởng thức một tác phẩm văn chương kỳ thú.

Tuy trong lòng lúc nào cũng có một ngôi chùa làng, thời thơ ấu từng ngồi một năm trên ghế trường Bồ Đề, lại từng giao lưu thân mật với các bạn Phật tử tại Paris trong nhiều thập niên, người biên dịch không phải là đệ tử nhà Phật, cũng chẳng biết bao lăm về thiền. May mắn là cách đây gần bốn mươi năm đã được chút kiến thức nhập môn qua những truyện thiền đầu tiên được dịch ra tiếng Việt trong Tập San Gió Nội (ở Pháp) in bằng ronéo. Gần đây, trên mạng lại được thưởng thức bản dịch các tập Lâm Tế Lục, Bích Nham Lục, Vô Môn Quan, Uyển Đăng Lục, Thập Ngưu Đồ… của các cao tăng và chư hiền. Nhân vì muốn lợi dụng vị trí của mình đang sống trên đất Nhật, nên chúng tôi mới thử tìm hiểu xem các ông bạn láng giềng vốn có truyền thống Thiền tông lâu đời này đã tiếp xúc với thể loại này bằng cách nào.

. Nguyễn Tường Bách : 
Ngày nọ anh mở mắt thức dậy và thấy mình là chiếc quạt máy. Anh thấy mình chạy vù vù, xung quanh là nhiều người ngồi hóng gió. Anh nhìn lại mình và thấy có hai loại vận hành. Anh thấy cánh quạt của mình quay tít, khi nhanh khi chậm thì theo nút bấm. Anh lại thấy mình quay qua quay lại để phát gió đi khắp mọi hướng.

Dần dần anh tự thấy mình vô cùng quan trọng. Anh là trung tâm điểm của mọi người. Ai cũng sung sướng khi anh hoạt động, ai cũng chen chúc muốn ngồi gần anh để được anh phát cho chút gió. Anh hết sức hãnh diện về vai trò của mình, lòng anh thật tâm muốn mang lại những giây phút mát mẻ dễ chịu cho người khác. Anh tự quan sát mình thêm. Anh thấy mình có màu sắc thanh nhã, kiểu dáng xinh xắn, vận hành êm ái. Ai cũng khen ngợi anh. Anh vừa lòng với chính mình, với thể chất của mình và vai trò trong "xã hội".

. Nguyễn Tường Bách : 
Một ngày nọ tại sân bay quốc tế Bangkok, trong khu vực nghỉ ngơi của doanh nhân, kẻ viết bài này bắt gặp một người lạ. Với khuôn mặt nghiêm túc, áo quần tươm tất của một giám đốc công trình, ông vội vã xách cặp bước vào phòng. Sau khi uống một ly nước, ông xếp bằng tĩnh tọa trong một góc phòng. Chỉ năm bảy phút sau, thân ông dãn ra, tâm ông dường như tươi mới, nét mặt phảng phất một sự bình an nội tại. Một điều ít thấy trong giới doanh nhân.
. Nguyễn Tường Bách
Câu chuyện của tôi muốn nêu ra là: "Những chuyển biến tâm linh hiện nay trong xã hội có ý nghĩa gì".

1. Sự vật chất hóa: Từ "Không" đến "Có"

Hãy tưởng tượng ta có ý định viết thư cho một người bạn. Nếu ý định đó đủ mạnh, nếu ta có thì giờ, có giấy có mực, lá thư đó sẽ thành hình. Khi đó ý định của ta được vật chất hóa thành lá thư. Lá thư có thân, có tâm hẳn hoi. "Thân" của nó là giấy là mực. "Tâm" của nó là thông tin chứa trong lá thư.

Hãy lên cao hơn một tầng nữa và xét thân thể chúng ta. Thân thể chúng ta, theo quan niệm Phật giáo, cũng là một sự vật chất hóa của một dòng năng lực có tính cá thể. Dòng năng lực đó, điều mà Phật giáo gọi là dòng nghiệp lực hay dòng tâm thức, cũng cần đủ mạnh, đủ tinh cha huyết mẹ, đủ nhân duyên, đủ điều kiện, mới tái sinh trong thế giới loài người này... 

. Nguyễn Thị Chân Quỳnh :
Sau hơn năm mươi năm sống ở Pháp, tôi chán cái "khí hậu ôn hòa" của Pháp, một năm mất sáu, bẩy  tháng không băng tuyết thì cũng lạnh giá phải sưởi, không áo lông, mũ da, bao tay và ủng thì cũng áo "manteau" (áo choàng bằng len dầy) nặng chình chịch, nên tôi quyết tâm trốn về Việt Nam, tuy nóng nhưng quần áo mỏng nhẹ nhàng. vả lại mình sinh trưởng ở Việt Nam, lại có máy điều hòa, sợ gì ? "Dzậy mà không phải dzậy" !
. Đông Phong : 
Những người nghiện thuốc lá như tôi rất thích về Việt Nam vì còn được tự do hút thuốc khắp mọi nơi mà không bị kỳ thị phiền phức như ở Âu Châu, ở Mỹ, hay ở Hương Cảng, v.v…
Hôm nay, để quên trong chốc lát những luật lệ cấm thuốc lá càng ngày càng paranoïaques ở đây (Pháp), tôi viết tào lao kể ít giai thoại liên quan tới thuốc lá.
 
Ngày 15 tháng 1 năm 2009 vừa rồi, UNESCO khai mạc L’année mondiale de l’Astronomie tại Paris để kỷ niệm 400 năm sau khi nhà bác học Ý Galileo Galilei (1594-1642)  lần đầu tiên dùng viễn kính  để quan sát vũ trụ (năm 1609).
Nhân dịp này xin mạn phép kể ít giai thoại về thiên văn thời thế kỷ XVII từ Âu Châu tới Đại Việt.
Thời đó, cách mạng khoa học, với toán học, vật lý học, thiên văn học, giải phẫu học, thực vật học, v.v…, mới xuất hiện và phát triển nhanh chóng tại Âu Châu.
Riêng về thiên văn, từ trước tới nay ở Âu Châu, mặt trời chạy quanh trái đất đứng im theo lý thuyết của Aristote (384-322 trước J.C.) và Claudius Ptolemaios (Ptolémée, 90-160 ?), rất hợp với Kinh Thánh (Josué thổi tù và schofar để ngừng mặt trời khi ông phá thành Jéricho) : đó là lý thuyết géocentrisme, nghĩa là trái đất là trung tâm của vũ trụ. Nhưng, từ thế kỷ thứ XVI, ông thày tu Ba-lan Mikolaj Kopernik (Nicolas Kopernic hay Nicolaus Copernicus, 1473-1543)  đưa ra một lý thuyết trái ngược : trái đất vận hành quanh mặt trời trong chuyên luận De Revolutionibus Orbitum Cælestium (năm 1543 trước khi ông qua đời) : đó là lý thuyết héliocentrisme (còn được gọi là théorie copernicienne).
.Lê Huỳnh Lâm :
Sống trong một ngôi nhà bên dòng sông Hương thơ mông, cách thành phố Huế chừng 10 km, anh đã trải qua bao biến cố của xã hội, gia đình nhưng ánh nhìn trong đôi mắt anh luôn hướng về phía những chân trời nhân bản, điều đó đã được anh thể hiện trong tác phẩm của mình. Nhiều bức tranh của anh gợi lên nỗi buồn man mác, có bức tạo nên cảm xúc tràn ngập cho người xem khi liên tưởng đến đời sống của cư dân trên sông. Có bức diễn đạt sự cô đơn của kiếp người giữa không gian vô hạn và có những bức tranh như mô tả bốn mùa đang trôi qua thành phố thơ mộng....- Lặng lẽ, những mảng màu tỏa sáng
 
Trịnh Nguyễn Đàm Giang
Chén Hygeia vẽ một con rắn cuốn quanh cái chén nguyên thủy có nguồn gốc Hy Lạp.

Zeus, vị thần tối cao ngự trị Núi Olympus và cai quản tất cả những thần nam cùng nữ ở Pantheon, có một con trai tên là Apollo. Apollo là vị thần đảm trách tiên tri, âm nhạc, ánh sáng, và Y thuật. Apollo có một người con trai tên là Asclepius (Greek) (hay tên Latin là Aesculapius) sau đó đuợc phong làm thần Hy Lạp đảm nhiệm y thuật và chữa bệnh. Asclepius thường đuợc miêu tả cầm một cây gậy có con rắn cuốn chung quanh.

Sau một thời gian nhận thấy tài chữa trị bệnh tật của Aesculapius quá giỏi, Zeus e ngại rằng Aesculapius sẽ làm tất cả đàn ông trên thế giới trở nên bất tử...

. Nguyễn Quốc Bảo : 
Thú mây khói người đời ai rõ…
               (TchyA Đái Đức Tuấn)

Vào thập niên Bốn Mươi, Ông Cậu tôi, TchyA Đái Đức Tuấn , viết Bài Ca Thuốc Lào, nguyên bản bằng Hán tự với tựa lúc đầu là Việt Yên Ca 越 煙 歌 , sau đổi tên là Thuốc Lào. Bài thơ khởi đầu với câu: Thời sĩ bất tri hồ dân yên 时仕不知乎民煙 , shí shì bù zhi hu mín yan, diễn Nôm là Thú mây khói người đời ai rõ…Bài này TchyA viết lúc về ẩn dật ở quê , lên núi tu tiên, dời bỏ cuộc đời trác táng ở Hà Nội với Cô đầu và Thuốc phiện, ông đổi thú mây khói Á phiện qua mây khói thuốc Lào. 

. Nguyễn Quốc Bảo
Tín Hữu Ki Tô Giáo Đầu Tiên ở Việt Nam 1572
Người Đầu Tiên tiếp xúc với A Lịch Sơn Đắc Lộ và theo Đạo Hoa Lang 1627
Họ Đỗ Vô Địch Việt Nam với 60 Khoa bảng Tiến Sĩ
. Đan Vy & Bạch Yến 
Từ xưa, ngoài tên gọi Thành phố Ngàn thông, Ngàn hoa, Đà Lạt còn được gọi là Thành phố Mai anh đào hay Xứ hoa đào. Tuy nhiên cũng đã từ lâu Đà Lạt không còn xứng với tên gọi đó nữa.

Một thời gian dài, cây mai anh đào hầu như vắng bóng trên thành phố này. Chỉ còn sót lại một vài cội mai già đây đó còm cõi không đủ sức nở hoa. Thật buồn cho những người còn mơ mộng khi cất lên tiếng hát "Ai lên xứ hoa đào" quyến rũ một thời. Mấy gốc mai già bên đường nếu còn cố ra một vài cành để đơm nụ cũng bị người nào đó còn yêu hoa đào, chặt mang về nhà cho riêng mình. Không ai cần giữ gìn một vẻ đẹp tưởng đã sắp đi vào quên lãng.


. Tâm Minh Ngô Tằng Giao :
Ở nước ta trước khi có văn chương bác học với những bài văn theo khuôn phép nghiêm chỉnh thì người bình dân trong nước đã biết biểu lộ tư tưởng của mình bằng những câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao, phong dao v.v... được gọi chung là văn chương bình dân hay văn học dân gian. Văn học dân gian do ở sự truyền khẩu từ đời này qua đời khác mà còn lưu lại đến nay. Nó rất phong phú và đa dạng. Nó đề cập đến đủ mọi lãnh vực: từ luân lý đến đạo lý làm người, từ tâm lý người đời, tình ý trong lòng người đến phong tục tập quán. Lại có những câu về thường thức như thời tiết, thiên văn, canh nông, tướng người và các trạng thái khác nhau trong xã hội.
Pháp luật cũng là một trong những hình ảnh xuất hiện trong văn học dân gian của nước ta: từ luật tố tụng đến luật hình sự, từ luật kinh doanh đến luật gia đình…
. Nguyễn Quý Đại : 
Mùa Xuân ấm áp, cỏ cây đâm chồi nẩy lộc dưới nắng hanh vàng, buổi sáng tinh sương mặt trời chưa thức giấc đã nghe tiếng chim hót líu lo trên những cành cây xanh lá. Ong bướm bay lượn trong gió xuân thơm ngát mùi hoa, cảnh vật xinh tươi làm con người có cảm giác phơi phới yêu đời, hòa nhập với thiên nhiên. Nhưng ở Âu Châu lễ Giáng sinh và Tết dương lịch (Tết âm lịch vào ngày 26.01.2009) trong mùa Đông giá lạnh, , khác bên quê nhà Việt Nam những ngày Tết rộn ràng nắng ấm. Hồi tưởng lại mùa xuân quê hương, kỷ niệm xa xưa vẫn còn trong ký ức cuả mỗi chúng ta khó có thể phôi pha với không gian và thời gian. Nên những lần Tết âm lịch đến, người Việt ở hải ngoại đều tổ chức Tết cổ truyền theo phong tục Á châu và thực hiện những giai phẩm xuân. Theo quan niệm từ xưa tới nay người nào sinh vào năm của hàng Địa-Chi hay hàng Thập Nhị Can Chi thì mang tuổi thuộc con vật đó. Tính theo âm dương, 12 con giáp được chia thành hai cực âm và dương, trong đó con trâu (Sửu) thuộc âm. Trong khi kết hợp với thiên can, bao giờ những con vật mang tính chất âm cũng được kết hợp với yếu tố âm và những con vật mang tính chất dương cũng được kết hợp với yếu tố dương của thiên can. Những yếu tố âm của thiên can (còn gọi là thập can) là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Những yếu tố thuộc dương (Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm). Như vậy, Sửu trong địa chi (thập nhị chi) chỉ được kết hợp với: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Do đó, chỉ có những năm Sửu là: Ất Sửu, Đinh Sửu, Kỷ Sửu, Tân Sửu và Quý Sửu chứ không thể có những năm Sửu khác. Sửu dùng để chỉ thời gian từ 1 giờ tới 3 giờ sáng (đêm năm canh ngày sáu khắc). Tôi sưu tập tài liệu về trâu gởi đến độc giả, trâu gần với đời sống nông nghiệp Việt Nam từ nhiều thiên niên kỷ, hình trâu được khắc trên trống đồng thời Đông Sơn.
. Việt Hải : 
Trong âm lịch thì người ta dùng phương pháp thập nhị chi, hay 12 con giáp để tính chu kỳ cho năm. Sau năm Tí của 2008 thì đến năm Sửu 2009. Do đó năm mới sẽ là năm Kỷ Sửu, tức năm con trâu. Trong các loài gia súc gần gũi với nếp sống sinh kế của xã hội đồng quê Việt Nam thì trâu là loài súc vật rất hữu ích cho giới nhà nông cày cấy ruộng đồng. Việt Nam là xứ vốn sống nhờ nông nghiệp qua hàng chục thế kỷ, loài trâu đã chia sẻ cùng con người những nỗi vui buồn đồng áng, sản xuất ra lúa gạo nuôi sống người dân ta. Trâu là biểu tượng cho hình ảnh cần cù, chăm chỉ, cực nhọc và khoẻ mạnh. Trong tranh của Đông Hồ còn ghi nhận hình ảnh con trâu đi sát với sinh hoạt làng quê, có những chú bé mục đồng tóc để tóc chỏm thổi tiêu trên lưng trâu giữa những cánh đồng lúa chín vàng, hay bên những lũy tre xanh có những con trâu được nghỉ ngơi nhai cỏ sau những giờ làm lụng vất vả
. Hoàng Nam : 
Xin thưa rằng ngày xửa ngày xưa, thời vua Hùng Vương thứ 18, đất nước Việt Giao Chỉ của chúng ta được Thiên Hoàng đãi ngộ cho đồng ruộng bao la bát ngát, hoa quả thì chưa có nhiều thứ thơm ngọt như ngày nay. Vua Hùng Vương thứ 18 có nuôi một người con nuôi tên là Mai Yển, hiệu là An Tiêm. An Tiêm khôi ngô, thông minh và hiếu thảo nên vua yêu dấu lắm. Khi lớn lên, vua phong quan tước và cưới vợ cho. Từ đó, An Tiêm và vợ sống một cuộc đời giàu sang, hạnh phúc. Có lần yến tiệc với bạn bè, An Tiêm vui miệng nói : "Vợ chồng ta được như ngày nay là do số phận mà trời đã định cộng với công sức và tài năng của ta mà có". Chẳng may, lời nói vui đùa ấy lại lọt vào tai của những quan nịnh thần. Vốn ghen ghét với An Tiêm từ lâu nên nhân cơ hội này, họ đem tâu với Vua cha. Tưởng An Tiêm kiêu bạc, phản bội khi phủ nhận công ơn nuôi dưỡng của mình, Vua giận lắm. Ngài ra lệnh thu hồi chức tước và đày vợ chồng con cái An Tiêm ra hoang đảo ở ngoài biển Nga Sơn (thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay) và chỉ cho một ít lương thực dùng trong vài tháng.
. Bùi Thụy Đào Nguyên : 
Bao Công tên thật là Bao Chửng (包拯; 999 - 1062), tự Hy Nhân. Ngoài ra, ông còn được gọi là Bao Thanh Thiên, Bao Hắc Tử hay Bao Long Đồ..
Bao Công nổi tiếng là một vị quan "thanh liêm, chấp pháp nghiêm, không khiếp sợ quyền uy hay vị nể tư tình" dưới thời hoàng đế Tống Nhân Tông (1022 - 1063).
. Bùi Thụy Đào Nguyên
Đào Tiềm sinh trưởng trong một gia đình địa chủ (1) sa sút vào thời Đông Tấn.
Cha ông làm gì, sử không chép, chỉ cho biết mẹ là con gái một vị đại tướng quân.
Năm 29 tuổi, ông làm Tế tửu Giang Châu. Mười ba năm tiếp theo, mấy lần ông làm quan nhỏ, mỗi lần chỉ trong thời gian ngắn. Khoảng 40 tuổi, vì nhà nghèo mà còn phải nuôi mẹ già, vợ con (ông có cả thảy năm người con trai), ông ra làm huyện lệnh Bành Trạch (vì thế ông còn được gọi là Đào Bành Trạch). Được hơn 80 ngày, nhân cuối năm quận phái viên đốc bưu đến huyện, nha lại khuyên Đào Tiềm chỉnh đốn y phục ra đón. Ông than rằng: "Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa" (Ta sao lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!).

Ngay hôm ấy ông viết bài ''Quy khứ lai từ'' (Lời bày tỏ việc trở về), rồi trả ấn bỏ quan mà về.

. Trần Trúc Lâm : 
Thiền tông Trung Hoa đã gây ảnh hưởng rất lớn không những về mặt tôn giáo mà còn thấm nhuần sâu xa vào văn hóa, tâp quán, triết học, tư tưởng, học thuật của Trung quốc và các nước lân cận như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.

Phật giáo từ Thiên Trúc đã du nhập lẻ tẻ sang Trung quốc đầu kỷ nguyên Tây lịch, nhưng mãi đến thế kỷ thứ III, trào lưu hoằng hóa mới bộc phát do sự gia tăng thỉnh kinh, dịch thuật và cầu pháp. Năm 329 có Hòa thượng Pháp Hiền đi Ấn Độ thỉnh kinh. Năm 401, có vị Đại sư xứ Dao Tần (Kucha, thuộc Tân Cương ngày nay), vốn dòng dõi quí tộc là Cưu Ma La Thập (Kumarajiva: 344- 413) đến Trường An truyền bá Phật pháp và phiên dịch kinh Đại thừa dấy lên một phong trào chép dịch kinh Phật rầm rộ ở Trung quốc. Các tông phái ban đầu như Tịnh-độ, Tam-luận, Thành-thực, Niết-bàn vv... liên tiếp lớn mạnh. Rồi các tông phái khác như Thiên-thai, Hoa-nghiêm, Pháp tướng vv... dần dần được thành lập.

. Trần Hạ Tháp :
Thuật hoài" của Điện suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt - như một Anh hùng ca - mãi mãi còn vang danh sử Việt. Đời sau cảm nhận được tráng chí chói trời Nam, một thuở hào hùng đầy "Khí thôn Ngưu, Đẩu":
"Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu"
"Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu"
"Nam nhi vị liễu công danh trái"
"Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"
Học giả Trần Trọng Kim đã để lại bản dịch nắm bắt được phần nào nguyên nghĩa của bài thơ:
"Tỏ lòng"
"Múa giáo non sông trải mấy thu"
"Ba quân hùng khí nuốt sao Ngưu"
"Công danh nam tử còn vương nợ"
"Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"
Cổ Văn
Thơ cổ Trung Quốc

. Quỳnh Chi phỏng dịch :

Xuân nhật tạp vịnh
Thanh san như đại viễn thôn đông
Nộn lục trường khê liễu nhứ phong
Điểu tước bất tri giao dã hảo 
Xuyên hoa phiên luyến tiểu đình trung
                 Cao Hành
Xuân nhật tạp vịnh (Cao Hành)   -  Cảm xuân  (Trương Tịch)  -  Xuân nhật  (Tần Quan)   -  Độ Tương giang (Đỗ Thẩm Ngôn)   -  Biện hà khúc (Lý Ích)   -  Khúc giang xuân thảo (Trịnh Cốc)   -  Xuân tư (Cao Khải)   - Tam nguyệt tam thập nhật đề Từ Ân Tự ( Bạch Cư Dị )
Dân tộc học, Văn hoá học, Lịch Sử

. Võ Quang Yến : 

Khách du lịch ghé qua Paris không thể không lại viếng Điện Quốc gia Phế binh (Hôtel National des Invalides) có tiếng nhiều nhờ đã chứa mồ của Vua Napoléon. Nhưng chớ nên quên trong tòa nầy còn có Viện Bảo tàng Quân đội (Musée de l'Armée) là một trong những viện lớn nhất thế giới về mỹ thuật, kỹ thuật và lịch sử quân sự. Đặc biệt Phòng Đông Phương, Cận Đông và Viễn Đông từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 (Salle Orient, Proche Orient et Extrême-Orient du 15ème au 19ème siècle) trưng bày nhiều khí giới Ba Tư, Ấn Độ, Tích Lan,...những thanh gươm Trung Quốc, Nhật Bản... bao quanh một thanh bảo kiếm được ghi là của vua Gia Long.
Tôi không phải là người độc nhất tò mò đi tìm xem thanh gươm nầy. Nhưng tôi lại đã xin được ông Quản đốc Viện Bảo tàng mở tủ cho tôi chụp hình. 
. Bùi Thụy Đào Nguyên :
Tống Phúc Thiêm sinh trong thời loạn, lớn lên chọn con đường binh nghiệp.
Ông đi theo phò chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần năm nào không rõ, chỉ biết vào tháng 12 năm Giáp Ngọ (1774), sau khi quân Trịnh do tướng Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy chiếm được Phú Xuân (Huế), Định vương phải mang các thân thuộc vượt biển, qua địa bàn kiểm soát của quân Tây Sơn, tháo chạy vào Gia Định; ông xin theo hộ vệ, được chúa Nguyễn tin dùng, phong làm đến Chưởng cơ.
. Trương Thái Du : - Nói thêm về Đàn Nam Giao [PDF]
. Nguyễn Cao Đức : - L’aventure pour un empire - Gia Long 1762-1802-1820 [PDF]
. Trần Viết Điền : - Truy tìm nhân vật Nguyễn Bút trong hồ sơ Lăng Ba Vành [PDF]
.
Văn học - Luận - Tư tưởng - Thời đại -Ngữ Văn
. Vĩnh Đào :
Sáng sớm hôm sau, vị giám đốc văn học của nhà xuất bản Julliard uể oải lướt qua như thường lệ các tập nhận được ngày hôm trước chất thành một chồng trên bàn giấy ông. Dở tập bản thảo mỏng, câu đầu tiên đập tức khắc vào mắt ông : "Trên tâm trạng khó hiểu mà nỗi chán chường, vị dịu ngọt làm tôi day dứt, tôi ngần ngại đặt vào đó cái tên đẹp và trang trọng là nỗi buồn [1] ". Một câu không kém phần sâu sắc, khó đoán biết là do một thiếu nữ mới lớn viết ra. Đọc tiếp vài chục trang tiếp theo, ông có cảm giác là mình đang khám phá được một tài năng mới; ông vội vàng trao quyển truyện cho một người đọc bản thảo khác của nhà xuất bản. Cuối cùng tập tiểu thuyết nhanh chóng được trình cho người quyết định cuối cùng là René Julliard, chủ nhà xuất bản. Ông này đọc luôn một mạch hết tập bản thảo, và cũng bị quyến rũ vì câu chuyện của một cô gái nhìn đời với một cặp mắt vừa tàn nhẫn, vừa ngây thơ, tuy cuộc đời còn đang tuổi dậy thì mà đã bị xâm chiếm bởi một nỗi chán chường miên man. 


. Nguyễn Thị Chân Quỳnh :

Trước nhà Lý, sử sách chỉ chép rất sơ lược về quan chế Việt Nam : Thời Hùng Vương nước ta có các Quan Lang, Lạc hầu, Lạc tướng... ; thời Ngô Quyền đặt đủ trăm quan, dựng nghi lễ triều đình và định sắc áo mặc... 
Kể từ nhà Tiền Lê, quan chế nước ta bắt đầu rập theo khuôn mẫu Trung quốc : "Năm 1006 Lê Long Ðĩnh sửa quan chế theo  nhà Tống". Tuy nhiên, An-Nam Chí Lược ghi rõ :"Nước ta từ nhà Ðinh mới chịu tước phong vương của nhà Tống nhưng ở trong nước tự đặt danh hiệu, đặt quan có chức Chánh và Tiếp, tựa như phẩm, tùng".
. Thảo Đường Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh : 
Ở nước Trung Hoa, từ thời Chu, Tần, (trước Chúa giáng sinh) có rất nhiều học giả ra đời, mỗi nhà đều có viết sách, trình bày học thuyết của mình, với mục đích sửa đổi chế độ, mong đem lại hạnh phúc ấm no cho con người.
Số học giả ấy không phải chỉ một vài người, và số tác phẩm viết ra không phải chỉ một vài cuốn, cho nên mới gọi là Bách Gia Chư Tử, hay gọi một cách giản dị hơn là Chư Tử.
Người xưa cũng gọi Chư Tử là các tác phẩm của những nhà học giả ấy viết ra. Danh từ này được thấy dùng đầu tiên trong pho sách Thất lược.
. Trần Trúc Lâm : - Cốt nhục của Thiền

Trở Về  ]